cộng đồng pro forum chia sẻ
sân chơi teen - wed mới của admin - anh em vào phát triển


http://sanchoiteen.info
cộng đồng pro forum chia sẻ
sân chơi teen - wed mới của admin - anh em vào phát triển


http://sanchoiteen.info

Đừng nghĩ rằng bạn đang cô đơn bởi vì có ai đó đang sẵn sàng giơ tay cho bạn nắm. Hãy cùng chia sẻ để vơi đi nỗi buồn và tận hưởng trọn vẹn niềm vui trong cuộc sống này bạn nhé!



mọi ngườ đăng kí thành viên đi

số bài gửi vào diễn đàn số bài gửi vào diễn đàn :
325
:
ngày tham gia diễn đàn ngày tham gia diễn đàn :
10/04/2012
:
sở thick riêng sở thick riêng :
làm forum
:
LỜI MUỐN NÓI LỜI MUỐN NÓI :
thấy diễn đàn hay -thì đăng kí thành viên cùng phát triển nhé
thân : admin_hà
:
admin_hà
admin_hà

admin_hà
Admin

  • Admin
Tiếng Hú
Ðinh Hợi, Hưng Khánh năm thứ nhất, 1407
Mùa Xuân,
tháng 2, ngày 20, Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng bị quân Minh đánh kẹp từ
hai bờ sông Lô, lui về giữ cửa Muộn. Quân Minh rời về cửa Hàm Tử lập
doanh trại. Trừng cũng rời quân đến Hoàng Giang, đón Thượng Hoàng Quí Ly
và Hán Thương Hoàng Ðế từ Thanh Hóa tới.
Tháng 3, ngày 13, Trừng
cùng Hồ Ðỗ, Ðỗ Mẫn tiến quân về Hàm Tử, thủy bộ có bảy vạn người nhưng
phao lên là hai mươi mốt vạn. Quân Trừng bị mai phục tan rã, chỉ có thủy
binh là thoát được. Quí Ly và Hán Thương vượt biển về Thanh Hóa.
Ngày 23, quân Minh đánh vào Lỗi Giang ở Thanh Hóa như chỗ không người.
Ngày 29, quân Minh lại đánh vào cửa biển Ðiển Canh. Ngụy Thức là tướng
nhà Hồ, bẩm với Quí Ly và Hán Thương rằng ‘‘ Nước sắp mất, bậc vương giả
không chết dưới tay kẻ khác ’’. Quí Ly sai chém Thức.
Tháng 4,
ngày 11, bọn vệ quân nhà Minh chỉ có bảy đứa bắt được Quí Ly ở bãi Chỉ
Chỉ. Một bọn khác bắt được Nguyên Trừng ở cửa biển Kỳ La. Hôm sau, lại
bắt được Hán Thương và thái tử Nhuế ở núi Cao Vọng, thuộc huyện Kỳ Anh,
Hà Tĩnh.
Người Minh thống kê những thứ thu được: 48 phủ, châu;168
huyện, 3129500 hộ, 112 con voi, 420 ngựa, 35750 trâu bò và 8865 thuyền,
không kể đám vua tôi và con cháu nhà Hồ. Chinh di phó Tướng quân nhà
Minh Trương Phụ sai Ðô đốc Liễu Thăng giải tất cả về Yên Kinh với đủ
loại ấn tín, gồm Quí Ly, kẻ đã thoán ngôi nhà Trần , với các con là
Thương, Trừng, Triết, Uông, các cháu là Nhuế, Lô, Pham, chắt là Ngũ
Lang, Quí Tỳ, cháu gọi bằng bác là Cửu, Tuynh, Hoa, Tuấn, Việt, Hoảng...
Ðám tướng thần khá đông, có Ðông Sơn hưng hầu Hồ Ðỗ, Hành khiển Nguyễn
Ngạn Quang, Lê Cảnh Kỳ, bọn tướng võ là Bồng, Mông, Tài, bọn quan văn
Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Cầu, Nguyễn Mão...
Tháng năm, hạ chí.
Ðoàn người vòng vèo như một con trăn khổng lồ trườn lên triền núi. Mặt
trời như cái đấu lửa đổ dầu sôi lên cây cỏ bỗng lu dần đi từ đầu giờ
Dậu. Gió ở đâu ùa về bừng bực từng chập. Chim muông nháo nhác kêu, hàng
đàn vỗ cánh bay chao trên đầu những ngọn cây nghiêng ngả trong gió.
Tiếng vó ngựa. Tiếng quát. Không khí oi nồng đặc quánh lại. Rồi tiếng
sấm. Sấm động đổ rền vào vách núi, tiếng vọng từng chập âm a dọa nạt.
Ðầu núi, nóc ải Phá Lũy mới đây còn nhìn rõ nay lung linh mơ hồ trong
màn hơi bốc lên từ mặt đất. Lát sau, nóc ải như biến mất. Trên không
chằng chịt những chớp xanh lè mắt mèo. Sét, sét nổ hàng loạt xé rách màn
trời đục ngầu. Lại tiếng quát, tiếng hò hét. Ðám lính nhà Minh vừa chửi
vừa chỉ trỏ. Con trăn khổng lồ chùn lại uốn khúc lẩn mình vào bìa núi
dưới cơn mưa bắt đầu nặng hột.
Mưa quật xuống đất những làn roi
trắng xóa. Dưới tàn lá cây rừng, đám người vội vã treo những tấm lán kết
bằng lá gồi và xếp những mảnh liếp chắn nước theo chiều gió tạt vào.
Hai người lính dong ngựa từ đầu đến cuối dòng người, tay đánh chiêng,
miệng hò. Lệnh cho cả đoàn người ẩn náu trú đêm tại chỗ. Lệnh nhắc, kẻ
có tên trong sổ đầy đi Kim Lăng nếu có ai trốn thì cả gia tộc sẽ bị xử
trảm. Cả đoàn người im lặng. Chỉ có tiếng gió dập mưa sa. Và thỉnh
thoảng, tiếng ngựa hí.
Một thiếu niên mình trần lẩm bẩm rồi hạ từ
lưng xuống chiếc gùi đan bằng mây, miệng nói với lại kẻ đồng hành tay
đang đỡ một lão niên mảnh dẻ. Lát sau, dưới tàn lá gồi, lão niên lẳng
lặng nhìn về phía chân núi. Củi nhóm lên, lửa bắt đầu cháy phừng phực.
Hai thiếu niên đổ nước vào chiếc nồi đất thổi cơm. Những mảnh khói sắc
tím mượt lượn là theo triền núi trong mưa thổi đi mùi củi thơm lừng một
buổi chiều nơi địa đầu giông bão. Lão niên đằng hắng:
- Hay là Bảo đi xuống phía dưới xem anh mày đâu? Ðể Hùng ở đây là đủ... Ði đi !
Vâng lời, thiếu niên mình trần khoác lên vai chiếc áo tơi rồi lẳng lặng
bước. Lão niên nhìn theo thở dài. Hùng cời lửa, rót nước ra bát đất,
hai tay đưa cho lão niên. Cầm lấy bát, lão niên trầm ngâm:
- Có
chuyện trò, thì bảo anh con phải về. Việc chăm nom cha có con với Bảo là
thừa đủ rồi ! Anh con về cũng là để báo hiếu, nghe không?
Lẳng lặng gật đầu, thiếu niên mắt rưng rưng cúi xuống bắc nồi cơm, rồi vờ kêu:
- Khói quá, cay cả mắt...
Xuống dốc núi, Phi Bảo tay vin cành, chân xoay ngang, lò dò bước trên
những hòn đá bám rêu trơn tuồn tuột. Ðoàn người dẫu là đi đầy vẫn được
xếp theo một trật tự xã hội cố định. Ðám đi đầu là vua, là hậu, là hoàng
tử, hoàng tôn. Sau đến bọn đại thần, cả văn lẫn võ, mỗi kẻ được phép
mang theo một số người nhà. Tất cả, họ thực sự là bại binh của một cuộc
chiến chớp nhoáng nên được canh giữ hẳn hoi. Lính nhà Minh được lệnh kèm
họ sát nách, giáo mác hờm sẵn, sáng lòe, loảng xoảng. Kế đó, là một
đoàn xe kéo. Ðoàn xe ước cả trăm, chở đủ loại chiến lợi phẩm bắt được ở
Tây Ðô, ở Thăng Long... Dĩ nhiên là có ngọc ngà châu báu. Lại còn tượng
Phật, chuông, khánh. Rồi kinh, sách, lăng, bia mộ, cột đình, cột chùa
trên có khắc chữ. Thượng thư Hoàng Phúc, kẻ giúp Tổng binh Trương Phụ an
dân, đã ra lệnh có thể thì mang về tất cả những dấu vết chữ nghĩa của
bọn Nam di, cả chữ Nôm lẫn Hán tự. Cái gì không mang được, đốt, đốt hết.
Và giấu của thì còn nhân nhượng, chứ kẻ nào giấu sách là mang chém cả
nhà. Nghe đồn là ở cửa bắc Thăng Long, có một tay thư sinh mặt trắng,
ngông cuồng kêu trời rồi nhảy vào đống sách phừng phực cháy. Bọn lính
quây lại, và khi anh ta nhảy ra thì chúng lại đạp cho ngã lộn vào đám
lửa. Còn ở chợ Ðồng Xuân, cả một nhà tám người bị chém, đầu cắm cọc, bêu
suốt ba ngày. Nhà này đem giấu gia phả không mang nộp.
Sau đoàn xe
chở chiến lợi phẩm là đến bách tính. Họ thường là những kẻ nổi tiếng có
tay nghề độc đáo. Nào là thợ vàng, thợ bạc. Nào là thầy lang, sư, sãi.
Rồi ả đào, con hát. Và rất nhiều thợ rèn. Loại này nguy hiểm hơn cả,
mang đi Yên Kinh thì việc triệt cái khả năng rèn đao, đúc súng ở Giao
Chỉ coi là xong. Vì thế, chỉ đám thợ rèn là bị canh giữ cẩn thận, số còn
lại tương đối thoải mái. Thường là họ được mang cả gia đình đi theo,
tránh chuyện sau này họ có thể trốn về vì nhớ con thương vợ.
Bảo
vừa đi vừa trương mắt nhìn quanh tìm anh. Mưa vẫn như roi quất vào mặt
khiến Bảo cứ chập chập lại vuốt nước giụi mắt. Sáng nay, Thượng thư
Hoàng Phúc ở đâu bất ngờ cưỡi ngựa đến gặp cha con chàng rồi bảo Nguyễn
Trãi đi theo. Khi Thăng Long thất thủ cách đây bốn tháng, Phi Khanh đưa
đám con ngược lên Mường La nhưng giữa đường bị chặn bắt. Chia làm hai
toán, đám đi với Nguyễn Trãi thoát được. Thế cùng, Phi Khanh phải hàng.
Hoàng Phúc gom quyển thi của đám hai mươi sĩ tử cùng đỗ kỳ thi đầu nhà
Hồ cách đây sáu năm rồi bỏ công ra đọc hết. Phúc bảo, trong số đó chỉ có
Trãi mới có thực học, thấu hiểu Chu - Trình, trí lực hơn hẳn người đời.
Bắt Phi Khanh thư cho Trãi dụ hàng, Hoàng Phúc giở thái độ bề ngoài mềm
mỏng nhưng thực ra vô cùng quyết liệt. Ðổi lấy mạng cha, Trãi đành về
Thăng Long và xin Hoàng Phúc cho mình đi theo cha để báo hiếu. Phúc tính
toán, giá mà thuyết phục được Trãi ra hợp tác thì bọn Nguyễn Mộng Tuân,
Lý Tử Tấn... là những kẻ đồng khoa với Trãi chắc rồi cũng theo. Ðặt một
bộ máy cai trị mới, dùng bọn người này là bọn chưa có dính dáng sâu xa
với cả nhà Trần lẫn nhà Hồ thì đúng là thượng sách. Vì thế, Phúc ầm ừ,
lại xui Trương Phụ giả giận đòi đem chém Trãi, rồi chính mình ra can xin
như cứu mạng cho Trãi. Hiểu rõ cái chước ấy, Trãi vẫn rập đầu cảm tạ,
chỉ thưa, cha đi đầy mà con lại ra làm quan thì cái mạng mọn này dẫu có
cứu nhưng thế là thân bại danh liệt, nói còn ai nghe, thưa Thượng quan.
- Này, nhà anh kia ơi ! Vào giúp cho một tay !
Bảo quay đầu lại. Dưới chiếc chiếu lá buộc xiêu vẹo ngang đầu, một lũ
mấy người đàn bà ngồi co vào nhau, mặt mũi nhợt nhạt vì lạnh. Bảo lại
gần, chân đá vào đám cành cây tươi xếp thành đống dưới một gốc cổ thụ.
- Chúng em châm mãi mà không cháy. Anh châm giúp cho, trời lạnh quá.
Tiếng cô gái ban nãy lại vang lên, giọng van chịu nghe mủi lòng.
- Các chị có diêm hoàng không? Bảo hỏi.
- Có. Chúng em cũng có để nhưng lửa không bắt...
Bảo rút rìu chặt thêm cành, chọn ra những cành còn ráo, vun vào. Rút ra
một sợi giẻ, Bảo nhúng vào lọ dầu làm bấc rồi bật hồng châm lửa. Lát
sau, lửa bén. Ðến khi lửa đã có ngọn, Bảo lại nghe:
- Ðội ơn anh nhé ! Không có anh thì chúng em chết rét mất.
Quay lại, Bảo bấy giờ mới để ý thấy năm cô con gái, cô lớn nhất thì
chạc hai lăm, cô nhỏ nhất chắc chỉ mười ba mười bốn. Nhìn chân họ cong
queo xếp vòng vì nay buộc phải mặc quần theo kiểu người Minh chứ không
phải là váy như xưa, Bảo thương hại bảo:
- Các chị ngồi xổm dễ chịu hơn !
Cô gái nhỏ nhất, cũng là người nãy giờ lên tiếng nói với Bảo, nhấc người lên ngồi thử rồi bảo các chị:
- Thật đấy, ngồi xổm đỡ mỏi...
Cô cười hở lợi, hai hàm răng nhuộm đen nhay nháy ánh lửa, nhìn Bảo vẻ biết ơn, miệng ríu rít:
- Chúng em là chị em, ở phường Nghi Xuân, theo nghề ca kỹ. Họ bắt chúng
em đi, bảo là sang bên đó để hát cho Vua họ nghe, có ăn có mặc, không
phải lo gì sất !
Cô chị lớn lúc bấy giờ thở dài, hai tay hơ lửa bóp
vào nhau, mắt mở trừng trừng nhìn vào quãng không trước mặt. Bỗng cô
cất giọng, hát nho nhỏ:
Trèo lên núi dốc
Ngồi gốc cây rừng, (ôi) tôi ngồi gốc ( ơ à ) cây rừng
Ối a, ông trời, ối a...
Rằng tình ( ô anh ) ở lại
Rằng tình ( sao anh ) ở lại
Cho chặt hết cây rừng, (là) em còn vẫn ( ối a ) khóc thầm...
Cả đám cất tiếng hát theo cô chị, giọng thê thiết như tiếng chim trú
mưa trong tịch mịch núi rừng. Cảm thấy nỗi bi phẫn dâng lên, Bảo quay
mặt đi, lòng rưng rưng thương cho kẻ đi người ở. Không dám ở lại lâu,
Bảo đứng dậy. Cô bé nhỏ nhất hoảng hốt ngước nhìn:
- Anh về dưới xuôi cho chúng em đi với. Mưa bão thế này, trốn chắc dễ...
Bảo đứng sựng lại. Cô bé đã đứng dậy đi đến cạnh Bảo:
- Cho chúng em đi với, rồi em về hầu hạ cho...
Ánh lửa hắt lên mặt cô bé màu hồng rừng rực, màu của sự liều lĩnh trong
tuyệt vọng, liều lĩnh đến nỗi sẵn sàng đốt cháy ngay cả chính đời mình.
Bảo cắn môi, thở dài:
- Không, tôi không về xuôi được.
Cô bé
nhìn vào mắt Bảo, nửa thách thức, nửa khinh bỉ. Bảo cúi đầu. Một mảnh
ván khi người ta bám vào để khỏi chết trôi mà là một mảnh ván mục thì
quả thật đáng khinh đáng hận. Cô bé nhìn các chị, giọng thiểu não:
- Thôi em đi về đây !
Dứt lời, cô chạy băng băng đi.
Trên đường về sau khi tìm thấy Trãi, Bảo đi ngang một khu cây cỏ rậm
rì. Rõ ràng, chàng nghe thấy tiếng cô bé lẫn trong tiếng thở hổn hển và
tiếng cười thô bạo. Hình như cô gào lên thảm thiết:
- Ối giời ơi, buông tao ra...
Bảo nghiến răng rút con dao rừng, tay nắm chặt đốc dao, máu hừng hực
dồn lên mặt. Ði được vài bước nhưng đủ thời gian để kịp suy nghĩ, chàng
khựng lại, thụp người ngồi xuống vệ cỏ. Trong sự bất lực, Bảo chợt thấy
chính mình cũng là kẻ tòng phạm của tội ác. Tiếng kêu trời trong rừng
mưa chiều hôm ấy ám ảnh Bảo suốt một đời.
Khi mưa dứt hột sau độ ba
tuần hương, tiếng lính quát vang ngoài căn lán căng tạm. Lão niên chậm
rãi nhìn ra ngoài. Bảo đi trước, sau là Hoàng Phúc, Nguyễn Trãi và một
đám võ sĩ bước theo. Hoàng Phúc mặc triều phục nhà Minh, đầu đội mũ cánh
chuồn, thắt đai màu tía dành cho cấp hành khiển. Trên dưới tứ tuần,
người thấp bé nhưng tròn trĩnh, Phúc có cái tật cứ tập trung suy nghỉ là
mắt nháy liên hồi, nhưng một khi quyết đoán điều gì thì mắm môi lại.
Vốn có tiếng cẩn trọng, Phúc lại mềm mỏng, thường rất tinh nhậy trong
cách phân bổ hành chính nên được Vua nhà Minh hết lòng trọng dụng trong
việc bình định an dân. Bước vào, Phúc vòng tay, vừa cười vừa nói:
-
Kẻ này đường đột đến thăm, mong đại nhân xá cho - Quay sang Trãi đi
cạnh, Phúc đằng hắng -... có công tử đây nên tôi mới mạo muội để tỏ thêm
đôi lời...
Ðứng dậy, lão niên vái lại, ngắt lời:
- Tiện nhân là kẻ chiến bại, quan lớn cho sống thì sống, bắt chết thì chết, xin ngài chớ quá lời...
Vái lại, Hoàng Phúc nhẹ nhàng:
- Quân tử ở ngoài vòng thành bại, kẻ này có phải mù đâu mà không biết
ai vào với ai. Hai chữ Thế Thời lại chẳng ở tay người nên thành bại do
Trời, nào do mình. Dám xin đại nhân cho tôi có dịp đàm đạo dăm ba câu về
Thế Thời và hai chữ Xuất Xử...

Phúc nhìn quanh nhưng chưa kịp
nói thêm thì một tên lính phóng ngựa đến, nhẩy vội xuống quì vái, rồi
nghiêng người ghé vào tai Phúc thì thào. Phúc nghe, trán hơi cau lại.
Bước ra, Phúc nhìn lão niên, cúi đầu nghiêm trang:
- Kẻ ưu thời mẫn
thế là người không bỏ phí đời mình. Bản quan đã đôi lần bàn hơn thiệt
rồi, xin đại nhân nhớ cho. Minh Thành Tổ tìm cách phục hồi con cháu họ
Trần là thuận mệnh Trời và hợp lòng người. Công tử tuổi còn trẻ, trí lực
lại hơn người, bỏ phí thì quả là vô cùng đáng tiếc cho con dân Giao
Chỉ.
Lão niên vái, không đáp. Ðợi Hoàng Phúc bước khỏi lán, lão quay lại bực bội:
- Hừ, Trãi có biết chúng tính thế nào không?
Nhìn vào màn đêm chụp xuống đen như đổ mực, Trãi đáp:
- Dạ biết... Vì thế, con xin với chúng để con theo cha báo hiếu.
-... nhưng thế là hạ sách. Chúng tính rằng nếu con hàng phục chúng, thì
cả bọn sĩ hoạn sau rồi cũng vậy. Khi lớp sĩ đã cộng tác với chúng thì
chỉ còn đám võ dũng vô mưu, đánh dẹp như phủi tay. Còn phục hồi nhà
Trần, chỉ là danh, không là thực, con rõ chứ?
Gật đầu, Trãi lại thở dài:
- Bên họ ngoại nhà con, Vương thúc Trần Thúc Dao bị lừa vì cái chiêu
bài đó rồi. Con nghe nói cả Trần Nhật Chiêu cũng đã hàng phục Trương
Phụ, hiện được bổ đi trấn giữ Nghệ An...
Lão niên cười nhạt:
-
Quân người, tướng mình thì tướng lấy đâu ra quyền. Lại nhất cử nhất
động là có kẻ tâu trình ngay. Thở dài, lão niên hạ giọng - Thực như vậy
thì không thực, mà danh, xét cho cùng, còn tệ hơn hư danh. Ðời sau người
ta gọi là bọn bán nước... Còn Nguyên Hãn thì thế nào?
Trần Nguyên
Hãn vốn là quốc thích, vào hàng cháu Quốc thượng hầu Trần Nguyên Ðán,
gọi mẹ Trãi là dì. Mẹ ngày xưa học với cha chàng lúc đó còn là anh đồ
trẻ Ứng Long, thương yêu ăn nằm vụng trộm với nhau đến có mang. Long sợ
bỏ trốn, nhưng Ðán cho người tìm nhắn, cứ xem cái gương Tương Như với
Văn Quân, nếu thế được thì Ðán gả con gái cho. Ứng Long quả sau thi đỗ
Thái học sinh, nhưng không được vời ra làm quan nhà Trần. Sau khi Quí Ly
thoán ngôi, Ứng Long đổi tên thành Phi Khanh, được bổ làm Hàn Lâm học
sĩ.

Khi còn ở với ông ngoại là Nguyên Ðán, Trãi thỉnh thoảng
gặp Hãn trong những dịp tế lễ ma chay. Lần cuối là lần cả hai dự đám
tang của Phế Ðế Duệ Tông, bị chính cha là Thượng hoàng Nghệ Tông lệnh
cho bóp cổ chết. Sau đó, Hãn nhất quyết không can dự vào chuyện triều
chính. Về trang trại do cha ông đểà lại, Hãn lo việc đồâng áng, thường
hãnh diện nói rằng bát cơm ăn là do chính tay mình làm, không phải nợ
nần nhờ vả một ai. Sau nông vụ, Hãn thích đi ngao du, hễ có dịp là tìm
Vũ Mộng Nguyên. Người này đỗ Thái học sinh năm Quí Dậu đời Thuận Tông
năm thứ sáu, nhưng lui về ở ẩn. Không nói ra, Nguyên thỉnh thoảng úp mở
chê cách dùng người của Thượng hoàng, ý ám chỉ sự chuyên quyền của Hồ
Quí Ly lúc bấy giờ là Ðồng bỉnh chương sự, làm mưa làm gió đến độ chính
Quốc thượng Nguyên Ðán cũng phải nhẫn nhục nương thân. Sau khi Thăng
Long thất thủ, Hãn mang gia tộc chạy về Thanh Hóa, gom thủ hạ trên dưới
ba trăm người rút vào rừng tính kế phù Trần, nhưng hình như mới chỉ đánh
tiếng, chưa rõ hư thực thế nào. Thấy Trải im lìm, lão niên sốt ruột
nhắc lại câu hỏi. Trãi giật mình thưa:
- Nguyên Hãn cản Thúc Dao
không được, đã bỏ ra Hóa Châu đi lang bạt, rồi sau lại nghe đã quay về
nhà, không ai biết đích xác ở đâu. Con độ Hãn về lại vùng Hải Dương
chăng...
Lão niên thở ra:
- Trong đám hậu duệ nhà Trần, chắc
chỉ có Hãn là người được việc lớn thôi. Còn lại thì chẳng nên cơm nên
cháo gì. Vả lại, đức mỏng lắm rồi, nhà Trần có muốn phục lại tưởng chẳng
khác chi chuyện vá trời đội đá.
Cha con Trãi ngồi quanh đống lửa
bập bùng cháy. Ðêm về, sương núi bốc lên thốc buốt giá vào đến xương đến
tủy. Không ai nói năng gì, chỉ còn tiếng củi cháy lách tách giữa núi
rừng, và thỉnh thoảng tiếng khỉ tiếng vượn chí chóe văng vẳng từ xa.
Bỗng có tiếng chân rồi một người mặt tái mét chạy vào lán. Cúi đầu vái
lão niên, người đó quì một chân, giọng hốt hoảng:
- Quan gia có lệnh vời Hàn Lâm học sĩ Nguyễn Phi Khanh !
Nói xong, người đó lại vái chào rồi hấp tấp đi. Lão niên chép miệng
bâng quơ, bây giờ vua chúa gì nữa mà xưng Quan gia, nhưng cũng quơ chiếc
gậy đứng lên vẫy Trãi. Ðỡ cha, Trãi dìu đi, chân đạp vào những mỏm đá
sắc cạnh mấp mô trên dốc. Khí núi lạnh buốt ngấm dần vào người, Phi
Khanh run rẩy, thỉnh thoảng lại níu tay Trãi lấy đà. Quanh lối đi, quân
Minh đã giải thành từng nhóm đi tuần tra, tiếng dáo mác đập loảng xoảng.
Ðến một khoảnh đất rộng, lính tráng quây vòng một dãy lều có liếp chắn
quanh. Ðó là nơi tạm trú của gia quyến họ Hồ vừa bại trận.
Bước
vào, Phi Khanh ngước mắt đảo quanh. Cạnh một chậu than hồng, Quí Ly ngồi
trên một tấm da báo, mắt nhắm lại như ngủ, lông mày bạc như cước trắng
chạy xệch xuống đuôi mắt thỉnh thoảng lại giật lên nhè nhẹ. Hai bên Quí
Ly là Hán Thương và Nguyên Trừng. Hán Thươngï vẫn mặc triều phục, áo gấm
màu vàng có thêu rồng bằng chỉ đỏ, đầu đội mũ Triều Thiên. Về phần
Nguyên Trừng, cân đai không có nhưng vẫn còn nai nịt, chỉ thiếu đao
kiếm, thứ khó mà giữ được khi quân chẳng còn, tướng chẳng có. Ðám quan
văn võ thuộc cái triều đình phù du kéo đúng được sáu năm quyền bính lục
tục cúi đầu lấm lét bước vào. Ðợi cho họ ngồi yên vị, Hán Thương ủ rũ kể
lể rồi thở dài:
-... lại thêm cái vạ mới, chúng điểm danh tối nay
và không thấy hoàng tôn Hồ Ngũ Lang đâu. Thượng thư Hoàng Phúc ghé qua,
dọa sẽ đối phó thẳng tay, nay đã lên hội bàn với Ðô đốc Liễu Thăng. Mong
các vị giúp ý xem ta phải hành xử thế nào trong tình thế này.
Thời
gian chùng xuống, giãn ra chơ vơ như một sợi dây căng mới đứt. Nhìn đám
quan văn võ đi đầy ngơ ngác, Trãi vừa giận vừa thương. Lát sau, Thượng
tướng Hồ Ðỗ ngập ngừng:
- Giông bão thế này, đi lạc là thường. Thôi thì triều đình cứ xin tạ lỗi họ là xong !
Lúc ấy, Nguyên Trừng lắc đầu nhếch mép. Quí Ly mở mắt, lấy tay gõ xuống
thành ghế, cười ằng ặc trong cổ. Ðầu chít khăn đen, ngoài khoác chiếc
áo ngự hàn lông gấu, thân thể Quí Ly phình to tương phản với khuôn mặt
xọm lại, gò má gồ lên như hai nấm đấm, và cặp mắt trũng sâu cứ mở ra
nhắm vào mệt mỏi. Miệng đã rụng hết răng, Quí Ly móm mém phều phào:
- Lỗi với chẳng lỗi ! Thua thì tội lỗi gì mà chẳng phải chịu. Xin ai, ai cho mà xin...
Hán Thương cuống lên:
- Tâu bẩm Thánh Thượng, thế thì phải làm gì bây giờ? Nhìn Nguyên Trừng,
Thương tiếp - Ngũ Lang là con cháu huynh thì huynh phải chịu tội là
đúng phép. Con dại cái mang là thế !
Cười khẩy, Nguyên Trừng mím môi không đáp, mắt ngước nhìn lên trời như không nghe thấy gì.
- Im, im đi ! Quí Ly quát khẽ. Chịu, ai cho chịu? Tội gì? Chỉ có một
tội là thua, thế thôi. Nhìn đám quan, Quí Ly tiếp - này các ông, lộc nhà
ta các ông chưa hưởng bao nhiêu, nhưng khi trước thì chính ta ban phát
cho các ông bổng nhà Trần. Chẳng nhiều thì ít, các ông cũng nợ họ Hồ.
Bây giờ, xí xóa hết nếu như các ông bảo làm sao chỉ có non nửa năm mà ta
đã thua giặc Ngô dễ dàng đến vậy. Biết thì ta có chết mới nhắm mắt
được...
Dứt lời, Quí Ly ngửa mặt lim dim, ngón tay vẫn tiếp tục gõ
nhẹ trên thành ghế. Khuôn mặt của một kẻ làm gió làm bão trên ba mươi
năm liền căng cứng khẩn trương, hơi thở khò khè gấp lên như thúc giục.
Bọn Hán Thương, Nguyên Trừng cúi đầu. Ðám văn võ quan cũng cúi đầu.
Không khí đặc quánh lại, và gió bên ngoài lại bắt đầu cất lên giễu cợt.
Quí Ly thình lình hổn hển mắng:
- Ðồ vô dụng. Ðồ chó heo, sao không
mở miệng ra? Chúng bay là quân hèn hạ, bây giờ cho nói đấy, sao cứ câm
như hến. Xưa, sợ uy ta nên có câm còn hiểu được. Nay ta có còn là cái gì
nữa đâu mà bay cứ ngậm miệng nín lời...
Hụt hơi, Quí Ly lại nhắm
mắt, tay xua xua. Nhìn Phi Khanh im lặng, nước mắt ứa xuống đọng vào
những sợi râu ngả bạc, Trãi bỗng thấy tủi nhục vô bờ. Lấy công nương nhà
Trần, cha chàng dù đỗ đạt cũng không được dùng vì cái tội dân dã mà dám
vịn cành vàng lá ngọc, hai mươi năm liền vạ vật qua ngày. Phò nhà Hồ
thoán nghịch nên dẫu danh không phải là danh chính, cha chàng vịn vào ba
chữ tri thiên mệnh. Nhưng nay, mang thân phận đi đầy, cái thiên mệnh
nếu có thì chữ "tri" kia không thể đúng được. Quí Ly không nói nữa, chỉ
nhổ phì phì khinh bỉ. Trãi không kìm được, đứng lên khom lưng vái:
-
Khải trình Thánh thượng, non nửa năm thế là lâu chứ không phải là
chóng. Ðấy là cái ngọn của sự được thua. Muốn hiểu, phải tìm cái gốc.
Bật dậy, Quí Ly mắt sáng lên nhìn Trãi, giục:
- Gốc. Ừ, tiểu tử nói phải. Gốc thế nào?
Cúi đầu Trãi ngẫm nghĩ. Xưa Thánh thượng có thề với tiên đế Trần Nghệ
Tông là không thoán ngôi Vua, nhưng sau nuốt lời, ấy là bất trung, bất
tín. Sau, đã ép Thuận Tông đi tu mà còn giết cho bằng được, ấy là bất
nghĩa. Ðoạt được ngôi vua, biết thế nên phao mình là dòng dõi Ngu Thuấn
đổi tên nước là Ðại Ngu. Nhưng lại ngay đó đưa quân chinh phạt Chiêm
Thành, cướp đất lập công, mong xóa cái tội thoán nghịch. Chiến tranh
khiến dân đen oán thán, trong khi nội cuộc chưa yên, ấy là bất trí. Rời
đô từ Thăng Long về Tây đô Thanh Hóa chỉ vì sợ giặc Ngô sẽ mượn cớ phục
Trần mà xâm lăng. Ấy là bất dũng. Kinh đô lại chỉ dựa trên hiểm mà không
dựa vào đức, ấy là bất đức. Chống giặc Ngô, thu chuông chùa để đúc khí
giới, bắt sư sãi xung quân, lại dùng sách vườn không nhà trống khiến dân
đen hoang mang, thì là cách đánh giặc bằng lực mà quên đi rằng dân vi
quí, ấy là bất nhân.
Nghiến răng, Trãi định nói ra hết lòng mình
cho hả. Ngước nhìn thấy Quí Ly mắt hau háu, chân tay run rẩy, Trãi bỗng
thấy cổ khan chát, lòng chùng xuống. Một nỗi thương xót bao la cho thời
thế chứ chẳng phải riêng ai dâng lên như thủy triều. Nói ra bây giờ, có
thay đổi được gì đâu. Chỉ thêm cay đắng. Thêm tủi nhục. Quân thần nay
một ruộc, chẳng lẽ còn dày vò chi nhau. Trãi khẽ lắc đầu. Giọng ngậm
ngùi, Trãi chỉ thốt:
- Cái gốc là ở Thiên Mệnh, bẩm Thánh thượng.
Quí Ly trợn mắt, quát khẽ:
- Thiên Mệnh ! Ngẫm nghĩ một lát, Quí Ly khà khà cười, cao giọng - Ai khiến mi an ủi ta hả ranh con?
Lẩy bẩy đứng dậy, Quí Ly mất thăng bằng lại ngã ngồi xuống ghế, mồm hộc
ra một bụm máu. Nguyên Trừng liếc nhìn Trãi, ánh mắt long lanh như muốn
ăn sống nuốt tươi. Lúc ấy, Phi Khanh từ tốn đứng lên vái, chậm rãi:
- Tiểu tử nói vì Thánh thượng hỏi. Thật ra, Thiên Mệnh không ở đâu xa
mà chính ở ngay tay ta. Mất Thiên Mệnh, ta mất nước. Tất cả chỉ vì triều
đình thiếu đúng có một chữ Tâm. Vua quan như thuyền nhưng dân như nước.
Thuyền không lật được nước, chỉ nước mới lật được thuyền. Có chữ Tâm,
nước xuôi gió thuận, thế là Thiên Mệnh. Không có, ắt bão giông sóng dậy,
chuyện ý trời ý dân hẳn nhiên là một vậy !
Khi Hoàng Phúc sai lính
đến thì gia đình họ Ðỗ đã lục đục sắp chỗ ngủ qua đêm. Ðặng là thứ mười
trong một gia đình có đến hai mươi mốt đứa con, hành nghề hoạn lợn, nổi
tiếng là lành tay, tục gọi là Ðặng-thập vì quen mồm hứa hẹn lợn hoạn
xong chỉ dăm bữa nửa tháng là to lên bằng năm bằng mười ngay. Ðặng thị
vốn khéo thu vén, kéo tấm chăn bông ra trải rồi bảo đứa con trai chui
vào cho đỡ lạnh. Nhìn vợ, họ Ðặng an lòng, cời lửa cho cháy lên rồi vác
dao ra chặt thêm ít củi. Một lát sau, Ðặng quay về, xếp củi cạnh lán rồi
ngồi xuống cạnh vợ.
- Nhà ơi, phải chi mà mang theo được cái guồng quay tơ nhỉ? Tôi chẳng biết bên Ðại quốc có không?
- Có chứ, Ðặng cả quyết. Với lại họ bảo mình đi là để dạy cho họ cái
nghề của mình. Dạy xong thì muốn về là về, mang đi làm gì cho nặng...
- Tôi vẫn không tin, nhà ạ ! Ði rồi, về chẳng dễ thế đâu. Có lẽ là tôi
chẳng có bao giờ thấy lại bu tôi nữa. Ðặng thị nghẹn ngào -... mà bu tôi
chỉ còn một mình, tuổi lại cao... Nhiều khi tôi cứ nghĩ, nhà đi một
mình sang bên ấy, rồi xem sau về được thì về. Chứ dắt díu nhau thế này,
muốn về cũng khó. Tôi nghe đến được Yên Kinh, đi cũng mất ba, bốn tháng,
đường xá xa xôi, thổ ngơi không biết mà chữ nghĩa lại mù tịt...
Ðặng kéo chăn phủ lên vai, vùng tay:
- Mẹ mày lo xa. Nghề mình dạy cho họ xong là mình kiếm được cái vốn,
chỉ mấy tháng là về thôi. Tôi đồ vào quãng này năm sau là mẹ mày về
làng, có tiền tha hồ mở mày mở mặt. Xoa tay, Ðặng nói, giọng lạc quan -
lắm khi lại tậu được sào ruộng thì có kém gì chuyện vinh qui bái tổ, hở !

Ðắp thêm chăn cho thằng bé con nằm co gối đã chợp mắt ngủ, Ðặng
thị lắc đầu, tay quệt chìa vôi lên lá trầu têm sẵn bỏ vào mồm từ từ
nhai. Ðặng với lấy bị đồ nghề, lấy ra ngắm nghía. Bộ dao kéo này Ðặng
thừa hưởng từ ba đời, nhưng tất cả bí mật nghề nghiệp không phải chỉ ở
cái hình thể lạ lùng của cặp kéo hay lưỡi dao. Ðặng mỉm cười đắc chí,
tay mân mê chất thép lạnh tanh, thầm nhủ rằng có dạy thì cũng chẳng dạy
cho hết, phải giữ một phần để phòng thân. Ðặng thị vừa nhai trầu vừa
nói:
- Nhà cứ đi ngủ đi, để tôi bỏ thêm củi đốt...
Nhìn vợ,
Ðặng trạnh lòng. Vừa định nói một câu an ủi thì có tiếng chân thình
thịnh. Hai tên lính Minh và một người thông dịch hiện ra. Lệnh của
Thượng thư gọi, Ðặng chẳng hiểu là chuyện gì, vội vã choàng tấm áo tơi
lên người. Ðặng thị mặt tái xanh, lúng túng:
- Chuyện gì vậy hả nhà?
- Cứ yên tâm, đi ngủ trước đi !
Ra đến ngoài, nghe người làm thông dịch thì thào vào tai, Ðặng lại quầy
quả vào lán, tay xách bị đồ nghề. Ðêm hôm ấy, đến thật khuya Ðặng mới
mò mẫm về. Mặt xanh rờn, Ðặng chẳng nói chẳng rằng rúc vào chăn. Ðặng
thị vẫn chưa ngủ, bảo với chồng:
- Nhà ạ, quanh đây chắc nhiều sói. Nẫy, chúng nó hú lên rung rúc, ghê lắm. Nhà có nghe thấy không?
Thấy chồng không đáp, Ðặng thị tiếp:
- Tôi chỉ sợ nhà đi đường rừng, sói ra thì nguy...
Quay mặt nhìn ra bìa rừng tối đen, Ðặng thở dài rồi bảo:
- Không phải sói đâu. Tiếng người hú đấy...
Bị gặng hỏi mãi, Ðặng mới thì thào kể vào tai vợ. Ðặng thị nghe xong rú
một tiếng nhỏ, chui ra khỏi chăn, sợ sệt quàng chiếc áo bông lên người.
Cả đêm hôm ấy, Ðặng thị ngồi bó gối, miệng lẩm nhẩm ‘‘ Giời ơi, thật là
thất đức, mẹ con tôi sẽ ra sao, giời ơi là giời ! ’’.
Ðến cuối
canh hai, gió lại bắt đầu xào xạc. Nước trên lá rừng lộp độp rơi, lẫn
vào tiếng côn trùng chập chập rên rỉ trong đêm thâu. Bìa rừng, than từng
đống vẫn còn heo hắt cháy trước những căn lều căng tạm nằm suốt từ cuối
lên đầu dốc. Phi Khanh co ro trong chiếc áo bông đã sờn, tay vân vê râu
nhìn Trãi. Góc lều, hai anh em Phi Hùng và Phi Bảo co quắp nhưng đã ngủ
say, tiếng ngáy khò khè lúc lên lúc xuống. Ðêm chìm xuống như đò chìm,
từng chút một, nhưng không cưỡng lại được. Phi Khanh cất tiếng:
-
Thế là cha đã nói hết. Ðừng bao giờ tin danh nghĩa phù Trần mà phải tự
mình cướp lại nước từ bọn giặc Ngô. Chỉ có sách đó mà thôi, ngoài ra là
mê muội cả.
- Thưa cha, chúng lấy sách vở ta đem đốt. Rồi bao nhiêu
sinh đồ, thợ khéo, thậm chí sư tăng có sở học, chúng cũng bắt đem về
Yên Kinh. Chúng lại mang Tứ Thư, Ngũ Kinh thời Tống Triều sang nước ta
rao giảng. Cứ thế, nước ta ruỗng ruột trước, rồi sau như rắn không đầu,
thì con cháu nhà Trần hay ai đi nữa cũng chẳng thay đổi gì...
Im lặng, Trãi lát sau nhỏ nhẹ:
- Vả lại quyền lực xưa nay có ai cho không ai? Ban đầu, chúng sẽ ra oai
giết chóc cho ta sợ. Rồi sau, chúng sẽ ra ân mua chuộc lòng người. Nếu
chúng mua chuộc được là ta mất hết và chẳng có khả năng cứu vãn gì nữa
trong tương lai.
Phi Khanh cúi đầu thở dài lẩm bẩm nói một mình:
- Có sách gì khác không?
Chống cằm, Trãi nhìn vào màn đêm dày đặc, mặt đanh lại thành đá tạc.
Nét đăm chiêu khiến Trãi già hẳn đi, lưỡng quyền nhô cao lên, gân máu
trên thái dương nổi thành những vệt xanh chạy xuống mang tai. Nhìn Trãi,
Phi Khanh thình lình nghiêm nghị bảo:
- Thôi, con về đi. Theo cha
mà làm gì ! Nghẹn ngào, Phi Khanh tiếp - Làm trai thì về mà trả ơn nước,
thế mới là báo hiếu cho cha, chứ theo để chỉ chôn một nắm xương tàn thì
cha có chết cũng không nhắm mắt được. Nay, Hoàng Phúc sẽ lấy cái mạng
cha ra để ép con hàng phục. Ðừng bao giờ ! Ngày nào cha nghe con theo
giặc thì ngày ấy là ngày giỗ cha, nhớ đấy ! Chết không khó, nhưng sống
cho xứng đáng mới là khó...
Giọng đanh lại, Phi Khanh chợt hỏi:
- Con có muốn ta chết ngay trước mắt con không?
Ngạc nhiên, Trãi vội đáp:

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Quyền hạn của bạn:

Bạn không có quyền trả lời bài viết
Chia sẻ
Share

_____