cộng đồng pro forum chia sẻ
sân chơi teen - wed mới của admin - anh em vào phát triển


http://sanchoiteen.info
cộng đồng pro forum chia sẻ
sân chơi teen - wed mới của admin - anh em vào phát triển


http://sanchoiteen.info

Đừng nghĩ rằng bạn đang cô đơn bởi vì có ai đó đang sẵn sàng giơ tay cho bạn nắm. Hãy cùng chia sẻ để vơi đi nỗi buồn và tận hưởng trọn vẹn niềm vui trong cuộc sống này bạn nhé!



mọi ngườ đăng kí thành viên đi

số bài gửi vào diễn đàn số bài gửi vào diễn đàn :
325
:
ngày tham gia diễn đàn ngày tham gia diễn đàn :
10/04/2012
:
sở thick riêng sở thick riêng :
làm forum
:
LỜI MUỐN NÓI LỜI MUỐN NÓI :
thấy diễn đàn hay -thì đăng kí thành viên cùng phát triển nhé
thân : admin_hà
:
admin_hà
admin_hà

admin_hà
Admin

  • Admin
- Thầy ơi, em phải về...
Hai chữ thầy ơi nghe ấm ức ở cổ. Xuyến
nghĩ thầm, thêm vào một chữ, gọi được là thầy nó ơi, thì người đó là cha
đứa con mình đẻ. Thầy nó ơi, em sẽ ở lại mãi mãi. Còn nếu chỉ thầy ơi,
thì em phải về thôi.
Trãi giơ tay ra dấu cho Xuyến đợi rồi bắt đầu
chấm mực. Chàng cắn răng viết một mạch, bút vung lên rồi hạ xuống, người
căng ra nhấp nhô sóng lượn. Nét cuối không khác một đường gươm chém
xống nước, kèm theo một hơi thở nhẹ ngậm ngùi. Xuyến giơ tay đỡ mảnh hoa
tiên. Trãi viết :
Góc thành Nam, lều một gian
Gót chân qua, tình miên man
Bui một tấc lòng, ai người biết
Chèo quơ nước ngược chuyến đò ngang
Tay cuộn mảnh hoa tiên, Xuyến đứng trân trân, mắt cúi nhìn xuống đất. Ngửng phắt lên, Xuyến bậm môi nói nhanh:
- Sao thầy cứ một thân một mình mãi thế này. Hay là…
Nhìn vội ra sân, Trãi nói lảng :
- Ấy, một mà cũng còn đói nữa là hai, ba…
Giọng trách móc, Xuyến ngắt :
- Em không đùa, chuyện đói no em lo, không sợ. Chỉ sợ…
Con bé cháu đã ra đến ngoài sân, quay vào giục. Trãi nghe như gió thì
thầm hỏi bao giờ nước mới xuôi cho thuyền thuận chuyến sang ngang. Ra
ngoài đứng nhìn theo Xuyến cho đến khi khuất bóng cuối dốc, Trãi thở
dài. Không, không phải chỉ đàn bà biết yêu mới quả là khổ.
Sau khi
tế sống cha trên ải Phá Lũy, Trãi mang Hà Trí Viễn về Nhị Khê. Giục vợ
con, đàn em nhỏ và mẹ ghẻ sửa soạn trẩy về Ái Châu, Trãi gửi gấm cả gia
đình vào tay nhà ông chú họ. Hai ngày trước khi lên đường thì quan quân
nhà Minh ập tới. Trát quan Thượng Thư Hoàng Phúc triệu Trãi về Ðông
Quan, kèm một hàng chữ mai mỉa ‘‘ …giả như không về thì chỉ còn gặp nhau
nơi chín suối ! ’’. Chỉ kịp dặn Viễn thay mình đưa cả gia đình đi, Trãi
phải theo đám quan quân nhà Minh vượt sông Nhị vào Giao Châu phủ. Gặp
mặt, Hoàng Phúc tươi cười : ‘‘ Quí bằng hữu ! Thật là may, câu chuyện bỏ
dở nơi ải quan ta nay thừa thì giờ mà bàn ’’. Nghe Phúc thuyết phục cả
một ngày về lẽ xuất xử, Trãi ầm ừ. Phúc lại bảo : ‘‘... ở Mô Ðộ, Giản
Ðịnh tự xưng Ðế. Quân Thiên triều đánh một trận, tan tác chạy về Nghệ
An. Tri châu Ðặng Tất theo phò, cùng bọn ngụy thần kéo quân đến Bình
Than. Quân Thiên triều lại phải ra tay, chưa đánh chúng đã vỡ. Giản Ðịnh
thua, chưa có thế lực gì, thế mà đem giết tôn thất là Thúc Dao và Nhật
Chiêu là kẻ đem binh về phò, rõ là nhà Trần đất Giao Chỉ này đã tận rồi!
Người như thế, ông định theo mà dấy lại cơ nghiệp à ? ’’. Trãi lắc đầu.
Phúc sai đốt trầm, trịnh trọng mở tờ chiếu Hoàng Ðế nhà Minh để lên thư
án, bảo Trãi đọc. Chiếu viết :
‘‘ ... còn dư chúng không hàng
phục, vốn ngu muội bị bắt ép, dụ dỗ nên tình cùng đáng thương, nếu nhất
loạt bắt tội cả, trẫm thực không nỡ. Khi chiếu thư này tới, đều tha cho
cả. Quan lại ở các nha môn hãy thể lòng chí nhân của trẫm phải khoan
hồng, thương xót, chớ làm ráo riết, vơ vét của dân, hết thẩy những việc
không cần kíp phải ngừng bỏ cả ’’.
Ðợi Trãi dứt lời, Phúc nhìn Trãi
thân mật ‘‘...lúc này là lúc mang cái học ra cứu đời xây cuộc thịnh trị
’’. Trãi vẫn nhỏ nhẹ kiếu việc nha môn. Giọng nửa giễu cợt nửa răn đe,
Phúc hẹn ‘‘... thì cứ để sang năm, ta lại gặp lại. Còn từ nay trở đi,
ông bạn không được ra khỏi thành Ðông Quan nếu không có phép nhé! ’’. Từ
đó, Trãi tìm một góc nơi thành Nam, độ nhật bằng cách dạy học đã được
vài năm.
Chỉ còn ba ngày nữa là Tết. Bọn học trò đã bắt đầu bồn
chồn không yên. Buổi học sáng nay là buổi cuối, chúng làm vui lòng thầy,
gò người hí hoáy ngồi viết trên những chiếc trõng tre trong căn lều cửa
ngỏ thông thống. Ði đi lại lại, Trãi thỉnh thoảng lại dừng bước ôn tồn
nhỏ nhẹ bảo ban đám trẻ. Áo quần mỏng mảnh, chúng lập cập run rẩy trong
những cơn gió cuối đông mang cái lạnh giá thốc vào mái gianh chơ vơ
trống trải. Bỗng có tiếng lính hô trước cửa. Ngoảnh nhìn ra, Trãi ngạc
nhiên. Bước từ trên kiệu xuống, Hoàng Phúc phâåy tay bảo đám vệ sĩ dừng ở
ngoài cửa. Kéo lại giải chiếc mũ Thượng Thư, Phúc nhếch miệng rồi đằng
hắng :
- Chào cố nhân ...
Quay lại, Trãi khẽ nghiêng người, tay chắp :
- Kính chào Thượng quan.
Ðám học trò ngơ ngác ngước lên. Trãi ra hiệu, chúng đứng cả dậy, tay
vòng lại, khom người xuống chào. Phúc vén áo thụng bằng nhiễu xanh, lẳng
lặng đi lại, mắt chăm chú nhìn những trang giấy đang viết dở. Cầm lên,
Phúc nhìn Trãi, nói trống không :
- Thì cũng ‘‘nhân chi sơ, tính bản thiện...’’. Viết chữ Hán rồi sao lại còn thứ chữ gì lằng ngoằng bên cạnh đây hả ?
Thừa hiểu là Phúc cũng biết, Trãi điềm đạm :
- Bẩm Thượng quan, đó là chữ Nôm của chúng tôi.
- À, à... Phúc ngắt, thế những chữ ấy viết gì ?
- Người sinh ra, tính vốn lành.
- Thế có khác câu ‘‘ nhân chi sơ, tính bản thiện’’ không ? Chữ lại lúc
thì tượng thanh, khi lại tượng hình ! Thầy dạy thế thì chỉ làm học trò
loạn đầu rối óc. Quay lại nhìn đám học trò, Phúc nghiêm nghị - Bay muốn
tiến thân sau này làm thư lại hay phiên quan thì chỉ cần chữ Hán thôi,
nghe chưa ?
Cầm lên dăm quyển sách trên thư án, Hoàng Phúc nhìn Trãi :
- Thì cũng vẫn Luận Ngữ, cũng vẫn Trung Dung. Cười khẩy, Phúc tiếp -
thế mới biết Thánh hiền là chung cho cả thiên hạ, phải không thầy ?
Trãi mỉm cười, đủng đỉnh :
- Lời Thượng quan chí lý. Thánh hiền thì chung đấy thật, nhưng có làm
theo đạo Thánh không thì thiên hạ này lại mỗi nơi một phách, mỗi người
một cách...
Phúc ngắt, giọng gằn xuống :
- Ông nói cho rõ lẽ.
- Thưa Thượng quan, tôi chữ nghĩa bõ bẽ nên cố tìm mà vẫn chưa thấy
sách vở nào bảo đàn bà không được mặc váy mà phải mặc quần, đàn ông
không được búi tóc đóng khăn mà phải tết bím đuôi sam. Trãi lại cười -
nhưng ấy là chuyện nhỏ...
Ðỏ mặt, Phúc vặn :
- Thế chuyện lớn là chuyện gì ?
Trãi trầm tĩnh :
- Tháng trước ra bảng lập Văn miếu, đó là phúc cho hàng dân được tỏ đạo
Thánh. Nhưng lại hiệu cho châu phủ làm đàn thờ thần sông, thần núi,
thần gió, thần nông. Thôi thì cũng được. Nhưng tôi vẫn chưa rõ tại sao
quan Hữu tham tri họ Bành nhà Minh bắt thờ cả những thần không ai tế lễ
tôn cúng. Thưa thượng quan, đó là điều thật lạ? Thờ tế như thế phải
chăng đó là phong tục nơi Ðại quốc, thưa ngài ?
Phúc chưa biết đáp
lại ra sao thì một thằng bé rúc lên cười, tay ôm miệng sặc sụa cố kìm
lại. Trãi quay lại lừ mắt. Phúc nổi giận :
- Thằng bé kia, sao mày cười ?
Thằng bé độ lên mười, nước mũi nước mắt ròng ròng, cố nín đáp :
- Dạ, tại cái câu ‘‘ nhân chi sơ, tính bản thiện ’’.
Vỗ tay lên thư án, Phúc quát nhỏ :
- Mày cười vì ‘‘ tính bản ác ’’ à ?
- Dạ không ! Vì thế này... - nó lúng búng - Vì chúng cháu nói thế này...
Phúc dịu giọng, nhìn quanh một lượt, mỉm cười dỗ ngọt :
- Thế nào ? Ðứa nào nói trước ta thưởng !
Bọn trẻ nhìn nhau ngần ngừ. Một đứa, mặt mũi láu lỉnh, nhanh miệng :
- Chúng cháu nói ‘‘ Nhân chi sơ là sờ vú mẹ, tính bản thiện là miệng muốn ăn ’’...
Nó chưa dứt lời thì cả đám học trò ồ lên bụm miệng. Hoàng Phúc tím mặt,
nhưng chỉ một thoáng, Phúc nhếch mép rồi rặn ra cười, tiếng ha hả găm
cơn giận kìm được vào ruột. Lúc đó, đám học trò mới dám cười theo. Không
nhịn được, chúng cười nghiêng cười ngả. Bọn vệ sĩ đứng gác cửa cũng
nguếch miệng lên hô hố.
Bước ngoắt ra, Phúc nhìn vào mặt Trãi dằn từng tiếng :
- Tháng tới Giao Châu phủ sẽ mở ra học viện Ðông Quan ! Rồi ra thì có
lệnh cấm dậy cái thứ chữ Nôm loằng ngoằng như giun đất. Nhớ lấy !

Từ sáu năm nay, Hà Trí Viễn là dân ngụ cư ở Nhị Khê, trông coi mồ mả,
nhà cửa và mấy sào ruộng nhà họ Nguyễn. Vì xưa nay gia đình Trãi vốn
được lòng mọi người, dân làng coi Viễn như khách quí. Nhất là Trãi đã
thưa với tiên chỉ rằng đã nhận Viễn như nghĩa đệ, giao phó cho mọi việc
kể cả việc làng. Có Viễn, chàng nay chỉ về Nhị Khê ngày giỗ ngày tết,
mặc dầu từ Ðông Quan đi chỉ mất chưa đến một ngày đường.
Viễn là
một người đặc biệt. To cao dềnh dàng, Viễn lúc nào cũng như cố thu người
cho nhỏ lại. Bản tính lầm lì, chỉ cần lắm Viễn mới mở mồm ra nói. Mỗi
ngày, công việc đồng áng xong là Viễn lại về trộn bùn nung gạch. Cực
nhọc như vậy, là bởi Viễn chưa đầy hai mươi mà đã có đến sáu đứa con.
Con đông thế, dĩ nhiên Viễn không chỉ một vợ. Cô vợ đầu Viễn lấy khi mới
mười sáu chửa ngay. Khi mợ cả nằm dạ, cô em đến giúp chị. Thế là cô em
chửa, thành mợ hai. Lần này, hai chị em không cho cô út đến giúp chị.
Tưởng thế là xong ư ? Năm Viễn mười tám thì mợ cả và mợ hai đều lại
chửa. Sắp đến ngày sinh, Viễn đi Ðông Quan thăm Trãi, khi về dẫn theo
một người con gái. Viễn trừng mắt ‘‘... nhận chị nhận em với nhau đi !
’’. Năm sau, mợ ba cùng hai chị thi nhau đẻ. Viễn điềm đạm bảo, có con
là có của. Từ khi ấy, Viễn làm thêm một trái sau nhà. Người làng bông
đùa, cả ba mợ cứ thấp thỏm đợi mợ tư. Viễn bảo ‘‘ tri túc hà thời túc
’’. Không hiểu gì, ba mợ rủ nhau lên chùa Thiên Pháp hỏi sư bác. Sư bác
giảng ‘‘ biết đủ, thế là đủ ’’, rồi cười hềnh hệch nói lái ‘‘…chẳng chỉ
đủ mà là đù quá là đủ đi chứ lị ! ’’.
Sư bác chùa Thiên Pháp xưa là
võ tướng triều Trần, qui y sau lần đi đánh Chế Ma-Na đất Chiêm. Nghe
nói là Sư phạm sát giới đến độ đêm nào cũng nằm mơ thấy máu me và ma quỉ
về đòi mạng. Nhưng bỏ dao xuống là thành Phật. Và quả thế, Sư nay hiền
hòa, động chân động tay thì chỉ dạy võ trong sân chùa cho bọn thanh
thiếu niên quanh vùng đến xin học. Và Sư chỉ dạy đánh gậy, nhất định
tránh những khí giới làm bằng chất kim. Trong số đệ tử, Viễn giỏi võ
nhất. Bọn đồng học bảo là vì Viễn to con hơn cả. Sư giảng, không phải
thế, chính tại nghiệp Viễn nặng nhất. Viễn thản nhiên nhìn mọi người.
Quãng xế chiều, trời bắt đầu tối dần. Ðầu dốc, Trãi chậm bước lại, tay
nải chĩu một bên vai. Từ cao nhìn xuống những cánh đồng chiêm hắt hiu
khói nước bốc từ những gốc rạ cắm vào mặt ruộng. Một cánh cò bay ngang,
trắng muốt, thoắt biến sau ngọn đồi chơ vơ chắn sau, thoắt lại hiện ra ở
dòng sông phía trước cóng lạnh thu mình nằm im đón những cơn gió bấc.
Về Nhị Khê lễ Gia Tiên, chiều mồng một Trãi ra dọn dẹp ngôi mộ tổ nằm
trên lưng đồi, đầu hướng về phía núi Tản, phía sau là một rặng bồ đề
thân cây nào cây ấy sần sù đèo cả trăm năm trong những thớ gỗ đồng tâm
xoay vòng đến chóng mặt. Viễn giúp Trãi phạt tranh, nhổ cỏ, vẫn lầm lì
như thường lệ. Nhìn cánh tay Viễn săn chắc, bắp thịt cuộn lên thành
những gút thừng, Trãi bỗng nhận ra sự yếu đuối của thể xác là một bất
công của đấng cao xanh. Chữ với nghĩa, giờ tích sự gì ? Ðang miên man
nghĩ, Trãi bỗng nghe :
- Bác đã gặp Trần Nguyên Hãn chưa ?
Ngạc nhiên, Trãi lắc đầu.
- Hãn đến đây mấy ngày trước. Em chỉ chỗ bác ở Ðông Quan, nhưng có dặn phải cẩn thận, giặc nó rình mò.
- Hãn đi lâu chưa ?
- Ðược ba ngày rồi.
- Chắc Hãn về Côn Sơn. Ngày tết ngày nhất mà.
- Không ! Hãn về đó thì bị bọn phiên lại địa phương bắt ngay. Chúng đều biết Hãn theo Trùng Quang đế...
Thở dài, Trãi khẽ gật đầu. Lẳng lặng châm một bó hương, Trãi châm đợi
cho lửa bắt cháy phừng lên. Chàng chắp tay vẩy cho lửa tắt. Mùi hương
bốc lên bay thoang thoảng trong gió nhẹ hững hờ. Ðồ cúng đã sắp ra. Ðơn
giản có một buồng chuối, ba nắm cơm, trầu têm và ít cau đã bổ nhỏ. Trãi
khấn thầm, mắt nhìn vào quãng không, trí tuệ nắm bắt khoảng cách giữa
mình và bộ xương của vị cố tổ dưới lòng đất. Chàng rùng mình. Ðo bằng
thời gian, khoảng cách đó xa, xa lắm. Nhưng đo bằng hạt giống di truyền,
nó lại gần, gần đến đáng sợ. Vì sự hiện hữu không chỉ là phút này, giờ
này, tháng này hay năm này. Nó có trước từ một duyên khởi mù tăm. Và sẽ
tiếp tục đi vào tương lai xa tít tắp.

Khấn vái xong, Trãi kéo
chiếc áo kép co ro ngồi xệp xuống. Viễn khum tay che gió rồi bật hồng để
hóa vàng. Những mảnh giấy vuông vắn mạ ánh vàng bốc lửa, cong queo quặn
mình lại biến ra tro than. Viễn nhìn trời, thình lình trầm giọng :
- Hoàng Phúc về Nhị Khê đã ba lần. Nó đi dò gì không biết, nhưng lấy
thước ra đo đạc khu mộ này, rồi cặm cụi ghi chép. Một đêm, nó ở lại đây.
Vào quãng giờ Hợi, nó lập đàn cúng kiếng, xõa tóc vái sao trên trời,
miệng lại bí ba bí bô như đọc thần chú...
- Hoàng Phúc là một tên dị đoan mê tín pháp thuật. Nó lập đàn thờ đủ thứ thần, Trãi cười nhạt - thần sông thần gió...
Viễn lắc đầu, cắt ngang :
- Nhưng từ hai tháng nay, khe nước dưới chân đồi không hiểu sao lại cạn
dần. Nền nhà lắm khi nghe lục bà lục bục như đang vữa ra thành mảng.
Rồi đêm đêm có tiếng lao xao mà không thấy người.
- Chú nghe tận tai ?
- Vâng. Cả ba con vợ em cũng đều nghe thấy.
- Thế còn đám trẻ con ?
- Chúng nó thì không. Không thấy chúng nó nói gì.
Im lặng một lúc, Viễn quay nhìn Trãi, giọng trầm tĩnh :
- Em định từ từ để vợ con em về bên ngoại, rồi em đi.
- Chú đi đâu ?
- Em theo bác Hãn.
Viễn tần ngần :
- … Ði thì em có thể nhờ người làng đây trông nom mộ phần các cụ. Nhìn
bó hương cháy dở, Viễn tiếp - bên nhà vợ em họ nhận giúp rồi. Với lại
giỗ tết thắp cho nén hương thì cũng chẳng có gì...
Trãi vỗ vai Viễn :
- Người sống lo việc sống là quan trọng. Cúng kiếng chỉ là cách làm cho
người sống hiểu rằng quá khứ còn đó. Ðôi khi con người phải chủ động
dứt lìa quá khứ. Nhưng quá khứ thì lại chẳng bao giờ thực sự tách bạch
khỏi đời sống con người. Chú bất tất lo lắng chuyện này...
Vừa dứt lời, bó hương bỗng bắt lửa phừng phực cháy. Viễn nói như reo :
- Các cụ vui mà cười đấy !
Trãi không tin, nhưng lạ là lúc đó trời không một chút gió. Ðêm hôm đó,
Trãi lắng tai nhưng không có tiếng người lao xao. Cũng không có tiếng
đất cục cựa vỡ mình ra từng mảnh. Chỉ có tiếng mèo cái gọi đực. Thao
thức cho đến khi gà gáy sáng, Trãi trở dậy rồi lên đường về lại Ðông
Quan.
Mồng ba Tết, năm Quí Tỵ. Ðông Quan vào Xuân nhưng tối nay
trời bỗng lạnh hẳn xuống. Những cơn mưa dầm ngỡ đã qua lại kéo nhau về
sụt sùi dai dẳng. Gió ù ù thổi văng vào thế gian cái ẩm lạnh buốt người
ta tưởng đã quên được từ buổi tàn đông. Trãi khép tấm liếp, quàng tấm áo
bông lên vai, lẳng lặng ngồi dựa mình vào chiếc cột giữa căn nhà trống
vắng. Tiếng mưa nỉ non gợi lại những ngày qua. Qua đi như đám lục bình
trôi sông, như đám mây vờn trên nước. Qua đi bữa đói bữa no. Qua đi
những đêm dài chong ngọn đèn dầu chờ sáng. Còn ở lại ? Chút hương phấn
hôm nào Xuyến đến. Khóe mắt có đuôi thấp thoáng định mệnh ánh lên từ sự
bí ẩn nhất của con người. Ðó là đam mê. Và rồi đam mê cũng sẽ qua. Nếu
không còn gì, thì thế thôi. Nhưng nếu sau đam mê, cái sắp tới là ngưỡng
cửa bước vào thảm kịch ?
Trãi ngả người lên chiếc võng, mắt áp vào
chiếc gối vẫn thoang thoảng mùi bồ kếp từ mớ tóc Xuyến vấn cao để lộ ba
ngấn cổ thuôn cong ngọc ngà. Vẫn mưa. Mưa rỉ rả. Tiếng côn trùng vẳng
đến mơ hồ nửa hư nửa thực. Bóng tối sập xuống vách đất trát rơm dưới ánh
đèn hiu hắt cứ chập chờn nhảy múa đùa cợt. Trên xà nhà, một tà áo xanh
rũ xuống.

- Ơ, người là ai ?
- A ha, mi không biết à ?
- Liên quan gì đến ta ?
- Ta là người đàn bà vừa chết. Ta là kẻ báo mộng xin với ngươi thêm ba
ngày để ấp xong trứng. Hừ, chỉ thế mà mi không cho. Bọn học trò phát cỏ
đuổi theo. Ta quay lại van vỉ. Thằng lớn nhất - cái thằng trưởng tràng -
nó vung cây gậy quật xuống. Tiếng xương sọ vỡ vụn nghe như tiếng chim
non kêu. Ðầu ta dập ra, nát bét, ép nhẹp. Hai vợ chồng ta đến ở nhờ
trong đám cỏ tranh, đợi cho hai cái trứng nở là đi. Tội tình gì mà mi
đánh đuổi. Chồng ta mất vợ, mất con định về rình cắn cho mi chết. Nhưng
không, mi đi vắng. Thất vọng, chồng ta trầm mình trong dòng nước sông
Tô, đầu rúc vào lòng bùn, bỏ cái dương gian khốn nạn này cho bọn mi
sống. Nhưng ta thì không. Này, mạng sẽ trả mạng.
Hai cánh tay từ xà
nhà dài ra uốn éo rồi xiết vào cổ Trãi. Sặc sụa, Trãi cố há miệng hớp
hơi vào, kêu trời hỡi trời, nào ai ngờ là trong đám cỏ gianh có nhà rắn !

- Mặt đất này là của chung, loài người chúng bay lấy cái nghĩa lýù
gì để làm thành tư riêng mà đánh đuổi muôn loài ? Nghĩa lý không có,
nhưng chúng bay có phương tiện ! Luyện kim làm dao búa, đao kiếm, chúng
bay hóa ra chúa muôn loài, đến hổ báo voi gấu cũng phải lui về ẩn sơn
lâm. Huyễn hão, chúng bay đòi sẽ chinh phục thiên nhiên, ngăn sông, xẻ
núi, phá rừng. Rồi coi, một ngày bay sáng mắt ra để nhìn cho rõ cái thân
phận chúng bay. Cũng là từ thiên nhiên, bay như muôn loài, khác gì từ
con sâu cái kiến cho đến ngọn cây cành cỏ?
Trãi cố vùng, nhưng người tê liệt, ngực nặng như bị đá đè. Trãi thét lên:
- Không không, loài người chúng ta không ngu độn đến thế!
- Bay còn ngu độn hơn thế. Chính con người mới là kẻ thù của chính
mình. Như người Minh với người Ðại Việt. Như người họ Trần với người họ
Hồ. Như Hoàng Phúc với ngươi. A ha, chúng bay thù oán chém giết nhau
thật, nhưng thế đã đủ đâu. Chúng bay còn chém giết muôn loài, say máu
đến độ coi như thế là tự nhiên. Tết năm nay, dân Ðông Quan ăn bao nhiêu
gà, bao nhiêu vịt, bao nhiêu lợn, bao nhiêu bò ?
Trãi nghiến răng
giơ chân đạp, mồ hôi ra ướt đầm lưng áo. Vùng vẫy cho đến khi ngã lăn
xuống nền nhà, Trãi thấy miệng mằn mặn vị máu. Choáng váng, Trãi ra ngồi
ở thư án, tay ôm lấy đầu. Mở tập giấy Trãi đã gửi gấm vào cả trí tuệ
mình năm sáu năm nay, Trãi ngẩn ngơ rồi cố tập trung đọc từng chữ.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.

Sách Bình Ngô bắt đầu như vậy. Nhưng mắt Trãi hoa lên. Trên xà nhà, một
con rắn uốn éo bò, mắt lấp loáng ánh lân tinh xanh lè, đầu vắt vẻo chúc
xuống. Trãi cắn môi, tay nắm cái nghiên mực ném lên.
Tiếng đá
xoang xoảng vỡ toang thành mảnh sắc cắt thực tại từ mê hoảng trộn lộn
vào một không gian lạ lùng, trên có bàn thờ tổ họ Nguyễn ở Nhị Khê, dưới
là Nguyễn Ứng Long đang quì lậy. Lửa bất chợt bùng cháy, bốc lên đến xà
nhà khiến con rắn trườn xuống, đầu ngóc vào làm đổ bát hương thờ. Ứng
Long chồm lên đỡ, nhưng không kịp, áo đột nhiên bắt lửa thành đuốc. Trãi
không còn thấy con rắn, nay chỉ có cha mình quằn quại trong ánh lửa đỏ
mỗi lúc mỗi sóng sánh chảy ào ra một thứ dung dịch bốc mùi tanh tưởi.
Hoảng sợ, Trãi co người nhưng hai chân bị kéo xoạc ra, bụng nhầy nhẫy
chất nhờn loài bò sát uốn éo trờn qua trờn lại, tai thình lình lại chói
nhọn tiếng hú địa đầu năm nọ. Trãi vùng vẫy tuyệt vọng. Tiếng rắn phì
phì phun nọc phà sát màng nhĩ. Hơi tanh lắng xuống thật sâu khứu giác
rồi bốc lên lợm mùi xác chết đang rữa thối. Lưỡi rắn nhớp nháp thò ra
liếm láp hạ thể, trườn dần xuống bắp đùi, kích thích quá độ khiến xúc
giác nhột nhạt hóa ra hình phạt. Thét lên hãi hùng, Trãi nghiến răng
vùng dậy nhưng lại ngã úp mặt xuống trang sách đọc dở. Có phải một giọt
máu ở đâu vừa rơi vào chữ Ðại trong câu ‘‘ Nhân tất thế thiên, thể hành
đại mệnh ’’, đoạn nói về quan hệ giữa đấng tối thượng và con người trần
thế này. Ðó là một phủ quyết về thiên mệnh. Ðiều này quảù táo bạo ở thời
đại Trãi đang sống. Nhưng thực ra đó cũng chỉ là cái vùng mình tuyệt
vọng chống lại sự bé nhỏ thảm hại của thân phận con người.
Giọt máu trên chữ Ðại thấm qua ba trang sách.
Phạm Văn Xảo cho người đến hẹn Trần Nguyên Hãn ở quán Hậu Ðình. Vốn
lịch lãm nhưng kín đáo, Xảo khôn ngoan giao dịch với Thượng tướng Trương
Phụ. Ðể tóc dài rồi tết đuôi sam, Xảo hòa nhập dễ dàng với đám quan
quân nhà Minh. Phụ tin cậy giao cho Xảo công việc chuyển vận từ Giao
Châu về chính quốc. Khi chuyển ngọc châu, kỳ hương, sừng tê về Yên Kinh,
lần nào Xảo cũng tìm cách giữ được một phần riêng cho Phụ. Thuở theo
Trùng Quang đế, Hãn lờ mờ biết rằng những tin mật thăm dò được từ bọn
người Minh cầm đầu Giao Châu có thể là do Xảo báo. Vốn thận trọng, Xảo
giao du rất giới hạn, không hề lộ ra một điều gì cho ai nghi ngờ được.
Xưa nay, Ðông Ðô có phường Yên Hoa là nơi tục khách đến vui chơi hát
xướng. Phường có độ ba trăm nóc gia, tửu lầu nhan nhản hai bên đường,
nhưng nhà hát nổi tiếng thanh lịch thì chỉ có dăm ba. Ở những nơi đó, ca
kỹ được luyện tập từ tấm bé. Thường họ biết chữ nghĩa, và từ khi Giao
Chỉ thuộc Minh, đã có những cô hát được sành sõi các làn điệu như Ức Tần
Nga, Tần thu hoài, Vọng Giang Nam ... Nhiều tác phẩm lừng danh bên Ðại
Quốc triều Tống hiện thời rất thịnh. Nhất là Tống từ của nữ sĩ Lý Thanh
Chiêu, nỉ non kể lể nỗi niềm đám vợ hiền con thảo của những kẻ chinh
chiến, khơi dậy nỗi buồn xa xứ trong lòng bọn quan quân biên ải.

Tiếng đàn sáo văng vẳng ngay từ đầu một cái ngõ đủ rộng cho hai cái
kiệu đi. Trước cửa nhà hát, người ta treo những lồng đèn màu. Ánh sáng
yếu ớt hắt qua những tấm sáo kín đáo che đậy vừa đủ để khêu gợi sự tò
mò. Thỉnh thoảng tiếng cười đàn bà con gái cất lên, khi ròn rã gọi mời,
khi lại uốn éo tựa tiếng mèo hoang động đực. Hãn dừng chân trước một căn
nhà, tay vén bức sáo, nhô đầu vào định hỏi đâu là quán Hậu Ðình. Bên
trong, năm bẩy cô ca nhi đang tựa vai kề má một bọn lính, tay chuốc
rượu, mắt đưa tình, chẳng ai thèm trả lời. Thình lình, từ buồng trong
một tên phóng mình ra, tay giữ cạp quần, cứ thế cắm đầu chạy. Ðằng sau,
một ả nạ giòng đuổi theo, miệng la oai oái ‘‘…nó chơi quịt, chị em ơi !
Túm lại hộ ! ’’. Thuận chân, Hãn ngáng rồi giả vờ ngã theo tên lính, tay
giúi đầu hắn xuống đất. Ả nạ giòng nắm cái giải quần tên lính, bù lu bù
loa, kéo xềnh xệch. Cuộc ngã giá nhanh chóng kết thúc, với sự can thiệp
của một mụ tú bà sành sỏi. Ả nạ giòng ngúng nguẩy, trả công Hãn bằng
cách chỉ cho Hãn quán Hậu Ðình ở mé phải cuối ngõ.
Ðến trước, Hãn
ngồi đợi trong một căn phòng do Xảo đã đặt sẵn. Bên cạnh, tiếng đàn thất
huyền chậm rãi hòa vào tiếng tiêu đang vút cao rồi bỗng thình lình hạ
xuống hẳn hai cung. Một giọng hát lảnh lót bất chợt cất lên, lời đong
đưa :
Trời vần mây nổi sương giăng mắc
Tinh hà xoay nghìn cánh buồm say
Hồn ngỡ bàng hoàng về đất cũ
Thoáng bên tai
Ai đi về?
Về đâu đây ?
Chỉ biết đường xa chiều đã tà
Theo chẳng kịp chân vần thơ cổ
Gió lại chẳng dừng
Thuyền Bồng nào ghé bến mơ xa.
Tiếng hát kéo dài van vỉ tiếc nuối. Nó vẳng xa như một giấc mơ đọng lại
ở phút cuối giấc ngủ, lềnh bềnh giữa hư thực, mỏng mảnh nối quá khứ vào
hiện tại. Hãn chạnh lòng hồi tưởng lại quãng thời gian phiêu bạt. Tháng
tám năm Kỷ Sửu, Hãn đến Bình Than xung quân. Trương Phụ nhà Minh vây
hãm, Hãn theo Ðặng Dung lui về cửa Hàm Tử. Quân ta phải gặt lúa sớm,
lính bữa đói bữa no, lâu tất phải thua vì lương thiếu. Trương Phụ đến
đâu, thây chết thành non chỗ ấy. Lính Minh cướp bóc và giết chóc như trò
chơi. Chúng rán thịt lấy mỡ, móc ruột quấn cây đốt đuốc, mổ bụng moi
thai mang nộp lấy thưởng, sự tàn bạo khiến đến cỏ cũng không dám mọc
thẳng trên đất Giao Chỉ. Thủy quân của Phụ phá được Hàm Tử, vua Trùng
Quang lui về Nghệ An cầm cự được hơn một năm. Ðến tháng tư năm Quí Tỵ,
quân ta mười phần còn ba, phải lùi vào Hóa Châu. Vua sai sứ giả mang
phương vật đến Nghệ An xin cầu phong. Trương Phụ chỉ cười, không thèm
trả lời, mang chém sứ. Nghe tin, Trùng Quang Ðế khóc rồi lại tính gửi sứ
giả khác đến gặp Phụ. Ðặng Dung cản nhưng vua không nghe. Dung lẳng
lặng chẳng nói gì, suốt đêm mài kiếm, tiếng đá xoèn xoẹt chói buốt khiến
không một ai ngủ được. Tảng sáng, Hãn đến. Dung nói ngay ‘‘... ông đến
cáo biệt, ta biết rồi ’’. Hãn ngậm ngùi ‘‘ Nhà Trần tuyệt mất, tôi là
tôn thất mà nay cũng chịu. Tướng quân đi với tôi, ta lo kế khác ’’. Ðặng
Dung ngửa mặt cười một thôi dài rồi bảo ‘‘... ông đi đi. Nhớ cầm theo
cái này...’’. Ðó là bài thơ Cảm Hoài, than rằng dưới trăng mài kiếm đã
mấy chầy, sự thế lao đao khi tuổi tác, nợ nước chưa trả mà đầu đã bạc
với tháng ngày.
Ðang còn ngẩn ngơ, Hãn nghe tiếng kẹt cửa. Xảo bước vào, tươi cười, giọng đùa cợt :
- Ðể huynh đài một thân một mình chốn lầu hồng, đệ cứ áy náy. May có cố
nhân đây bảo, ai chứ Hãn thì có đâu câu nệ những chuyện vặt ấy…
Một người đứng sau bước lên. Nhìn thoáng, Hãn reo nhỏ :
- Trãi đấy à ? Ta không ngờ gặp chú ở đây đấy. Chú em tên Viễn dặn ta
cẩn thận. Quả có thế, ta đến chỗ chú hai lần, chúng nó rình mò thật !
Chú trói gà không chặt mà sao chúng nó lại hãi chú thế hả ?
Trãi cười không đáp. Lấy tay vẫy, Xảo gọi đám ca nhi vào theo, rồi thì thầm :
- Chuyện đại sự mà không có tiếng đàn tiếng sáo thì buồn lắm. Nhất là ở Hậu Ðình ...
Xảo quay người, tay kéo Hãn và Trãi vào một góc, miệng ngâm nho nhỏ hai câu thơ nổi tiếng theo cách Thanh bình điệu:
‘‘ Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu Ðình hoa ’’
than người con gái chẳng biết gì mối sầu mất nước nên bên sông vẫn cứ còn hát mãi khúc hát Hậu Ðình.
Ba người tụm lại, mặc cho đám ca nhi múa hát góc bên kia. Họ châu đầu
nói thì thào, thỉnh thoảng lại với ống điếu, rít thuốc rồi nhả khói bay
xanh một góc. Tình hình sau khi Trùng Quang bị bắt ngày một thê thảm. ỞÛ
Hoan, Ái tinh thần nghĩa quân không còn, lực lượng tứ tán. Trương Phụ
phái bọn Phương Chính và Thái Phúc vào giữ thành Nghệ An, làm thế ỷ dốc
với Diễn và Hóa Châu, vây chặn. Sự thể trước mắt thật khó, tiến chẳng
được mà lui cũng không. Trên miệt Mường La và Phục Lễ, Cao Bằng, nhà
Minh đặt đám Dao, Mán, Mường vào những chức vụ Tri Châu, biến họ thành
một tầng lớp phiên thần khá đắc lực làm tay sai. Hơn nữa, ở miệt trên,
hậu phương không có, đánh rút rất dễ mất chủ động nên phải bó tay.

Nhìn Trãi, Hãn thở dài. Xảo chán chường, ngả người ra với chiếc gối kê
lưng. Nhìn hai kẻ kiệt hiệt vẻ chừng như đã thấm mệt, Trãi ngẫm nghĩ một
hồi lâu. Bấy giờ, chỉ còn tiếng hát lẫn trong tiếng đàn ai oán. Trãi
bỗng thấy sợ. Nếu ngay những người này mà hoài nghi rồi buông thả, giang
sơn Ðại Việt sẽ còn gì ? Không, không thể thế được ! Nhưng làm sao đây ?
Phải rồi, phải đổi cách nhìn. Trãi bóp trán, giọng trầm tĩnh :
- Nói đến động binh trước mắt thì có thế thật. Nhưng nhìn dài hạn, đệ không bi quan như hai vị, ngược lại là đằng khác…
Nuốt nước bọt, Trãi nhìn ánh mắt thôi thúc cũa Hãn, nhẹ nhàng nói tiếp :
- Nay người Minh một mặt rêu rao nhân nghĩa, mặt khác thì bắt dân lên
rừng tìm sừng tê, xuống biển mò ngọc trai, đòi hết voi trắng đến kỳ lân,
thu mua đủ hàng hiếm quí với giá ăn cướp. Thuế cũng tăng, phu dịch thì
ngày một nặng nề, dân sợ ngậm miệng nhưng ca thán trong lòng. Trương Phụ
tàn bạo, động là giở trò chém giết. Hoàng Phúc thâm độc, đốt sách vở
Ðại Việt, lại chiêu dụ hiền tài mang về Yên Kinh. Nhưng cái sách bắt đàn
bà mặc quần cạo răng trắng, bắt đàn ông tết bím để đuôi sam thì không
phải là khéo cho lắm. Chẳng chóng thì chày cũng sẽ có chống kình. Mà hễ
có, là Trương Phụ lại sai Mộc Thạnh ra tay đàn áp. Dĩ nhiên máu sẽ đổ.
Máu lại gọi máu, thù lại réo thù. Cứ chồng chất lên thì lúc nào đấy, hô
một tiếng là có lê dân, giặc dẫu mạnh cũng không thể nào cưỡng nổi. Một
khi có lòng dân, sớm muộn rồi ta cũng thắng...
Hãn im lặng, tay laiï quơ điếu thuốc lào, châm đóm rồi rít sòng sọc. Xảo nhìn Trãi, ngờ vực hỏi :
- Sớm muộn là bao lâu ?
Trãi hiểu hy vọng nào cũng cần một cái mốc thời gian làm chuẩn. Oái oăm
thay, tương lai lúc này đâm ra tùy thuộc vào một võ đoán. Nhưng không
làm không được. Hít hơi vào đầy lồng ngực, Trãi nghiêm nghị :
- Nhà
Hồ được sáu năm, dân bỏ. Hậu Trần thì chưa đâu vào đâu, nhưng không gây
tội nên có thua quân Minh cũng phải mất năm năm. Từ nay, ai cũng rõ Ðại
Việt thành ra phủ Giao Châu dưới đế quyền Vĩnh Lạc nhà Minh. Trương Phụ
cứ vơ vét bạo ngược thế này, đệ nghĩ là chỉ năm, bảy năm cái chế độ
thuộc Minh phơi bày đủ để lê dân biết đâu là quyền lợi của họ. Từ đó,
chiến thắng thì mất thêm năm đến mười năm.
Hãn chừng đã xuôi tai, ngắt :
- Nhưng cần chính danh. Phò ai làm vua sau này ?
- Tìm người nhân đức mà phò, dụng tâm công mang đạo nghĩa chống hung tàn ...
Mang đạo nghĩa chống hung tàn ? Trãi ngạc nhiên nghe chính mình có thể
nói đơn giản đến thế vậy. Có lẽ từ một cõi tiềm thức thăm thẳm, chàng
buột miệng, mặc cho trực giác dẫn trí tuệ đi một con đường thẳng tắp,
không ngoằn ngoèo biện minh, không đôi co lý lẽ. Hãn bật cười, nhưng
giọng dịu xuống :
- Ta thấy ít kẻ thật nhân đức mà lấy được thiên
hạ. Thường, họ trí trá, giỏi nói và giỏi giả nhân đức. Cái kiểu Lưu Bị
ném ấu chúa đi, mắng cho vui lòng Triệu Tử Long, vì mi mà ta suýt mất
một tướng tài ấy mà !
Khuya hôm ấy, ba người dặn dò nhau rồi chia
tay. Xảo và Trãi đợi cho đến khi Hãn khuất bóng mới ra cửa. Trên trời,
sao khuya dày đặc một giải óng ánh. Xảo ngần ngừ, giọng chân tình :
- Bài thơ nôm huynh làm hôm tất niên hay lắm !
Bất giác, Trãi thở dài, lúng túng quay đi. Xảo níu tay Trãi, nói nhỏ :
- Này, tình thật nhé. Cái chuyện chèo quơ nước ngược chuyến đò ngang ấy
mà... Việc gì phải khổ thế, hở huynh ? Ở Ðông Quan chắc cũng còn lâu,
huynh cần có người chăm nom cho. Cứ nói một tiếng, em gái đệ sẽ theo về
hầu. Nó ở vậy chờ mãi, xem ra cũng tội nghiệp...
Ra khỏi quán Hậu
Ðình, Trãi cắm đầu đi trong đêm hun hút, bỏ đằng sau tiếng xênh tiền và
những lời ca thương nữ bên kia dòng sông lấp loáng ánh đèn. Ðông Quan
bây giờ im và lắng. Thỉnh thoảng có tiếng chó ằng ặc sủa, ngắt quãng như
bị bóp cổ, nhỏ dần rồi tan loãng vào màn đêm lạnh chớm hơi sương. Ðâu
đây, ai say rượu lè nhè hát, tiếng khô đục chạm vào mặt đất dội lại
thành lúc ê a, lúc ậm ừ, lúc lại ừng ực như đang nuốt vào lòng những
giọt nước mắt. Mùi hoa sữa dọc con dốc thoang thoảng, gió lên là biến
đâu mất, và khi gió ngừng thì lại quanh đây, ngọt ngào, bảo bọc.

Ðêm đen. Tiền đồ ? Trãi chỉ dự đoán và ước vọng. Bao lâu ? Câu hỏi của
Xảo lại vang lên. Sự xác quyết của Trãi ban nẫy nay không thuyết phục
được chính Trãi. Nó chỉ nhằm động viên khi ý chí nhất thời xuống dốc.
Con đường trước mặt thật vẫn gập gềnh. Và bất cứ ở khúc quanh nào tình
cờ cũng rình rập đe dọa. Lấy đạo nghĩa, chống hung tàn. Nhưng mấy khi
thắng được ? Mà nếu không, Trãi chua xót nghĩ, thì hung tàn chính là qui
luật tiến hóa ư ?
Lên đến đầu dốc, căn nhà Trãi sừng sững như một
khối cô đơn khổng lồ. Ði chậm lại, Trãi bỗng sợ phải một mình đối mặt
với khoảng tịch mịch trong kia. Trãi ngừng chân, ngửng mặt nhìn lên bầu
trời đen ngòm, cảm thấy mình ngụp lặn tận đáy sâu một vực thẳm. Ở đó,
đúng là không còn chút dưỡng khí. Trong lòng, ngọn lửa vừa nhen lụi dần.
Những tế bào não tê dại dập tắt khả năng vùng dậy để ước mơ. Với người,
Trãi mới đây gầy tro than nhóm lên hy vọng. Một mình, Trãi lại chỉ thấy
giá băng. Và một niềm tuyệt vọng mang mang. Hai con chó từ sân sau sủa
khe khẽ, chạy lại quấn lấy chân Trãi, đuôi vẫy rối rít. Mở cửa, Trãi
lách vào.
Góc nhà, ngọn đèn dầu ai châm lóe sáng. Trãi che mắt hỏi :
- Ai ?
- Em. Em đây.
- Ơ kìa, có thật là em ? Trãi dụi mắt, tưởng mình mê ngủ.
-...
- Sao em đến khuya thế ?
- Thì còn sao nữa...Ðừng cứ hỏi tại sao.
Người con gái ngồi trên giường, tay xổ khăn, mớ tóc huyền bung ra đổ
xuống bờ vai như thác chảy. Nàng nhẹ nhàng kéo áo rồi lần lên cởi, những
ngón tay thuôn mềm trên yếm đào nửa vội vàng, nửa chậm rãi. Nhắm mắt,
hàng mi cong vành cong như một vết chì thỉnh thoảng chớp nhẹ. Nàng mỉm
cười, hàm răng đen nhấp nháy dưới ánh đèn. Trãi sực đưa mắt lên xà nhà.
Mơ hay là thực đây? Không, không phải là người đàn bà áo xanh đêm nào.
Trãi cúi mặt nhìn xuống. Nàng chỉ còn chiếc váy che hạ thể, hai tay từ
từ vuốt lên bụng, rồi lên ngực, rồi xòe ra che hai bầu vú cong nhọn run
rẩy. Trãi thều thào :
- Thôi, em...
- Không ! Nhất định...
Trãi ngần ngừ. Chàng bước đến cạnh giường, tay để nhẹ lên vai nàng. Bất chợt, chàng mơ màng :
- Em có thật đây mà...
Trãi lênh đênh mặc cho thể xác phiêu bồng, kéo yếm rồi lần xuống cởi
dần sợi dây quấn váy, cảm thấy tay người con gái nắm tay mình lúc như
cưỡng, khi thì giục, trong tiếng rên rỉ nguyên sơ của nhục cảm diệu kỳ.
Hai cánh tay mềm mại vòng lên cuốn lấy cổ Trãi rồi khẽ ghì xuống, lôi
trời lôi đất vào mênh mang, kéo hạ thể theo chuyển động co thắt của giải
ngân hà, tinh tú thình lình tán loạn, sao băng tứ phía, vũ trụ thành
trận pháo hoa. Trãi hỏi trong mê hoảng, em, có thật không em, hay em là
giấc mơ có giọt máu rắn đêm nọ và hình ảnh chập chờn một giải áo xanh
oan nghiệt. Người con gái thình lình kéo đầu Trãi xuống úp vào ngực
mình, miệng chữ còn chữ mất :
- Còn ai nữa. Em có thật...
Mùi
hương thoảng vào mũi Trãi như thuở còn thơ chàng vẫn thường tìm hoa nhài
kết vòng mang về ngâm vào nước pha trà cho cha. Trãi giúi mặt vào lồng
ngực phập phồng, nghe tiếng tim đập như khơi giục, ngột ngạt đến nghẹt
thở. Chàng ngửng lên, để mặc thác tóc huyền xô vào mùi bồ kết cứ ban đêm
là sực thơm, thơm huyền ảo mùi thơm thuở khai thiên, giữa sấm chớp xé
vũ trụ thành những mảnh li ti, làm ra thiên hà, tạo ra cái trái đất bé
bỏng nhưng đầy bí ẩn này.
Trãi lăn vào cuộc nồng nàn nhận sự dâng hiến đầu tiên của người con gái khi đau chỉ nghiến răng ứa nước mắt.
- Sao em khóc ?
- Không. Em sung sướng. Ðội ơn chàng ! Cái chuyến đò ngang đó...
Cứ thế, đêm qua đi. Bao nhiêu sinh lực Trãi chẳng kìm đều cho ra hết.
Người con gái ngỡ ngàng. Nàng dịu dàng bảo, em là của chàng mãi mãi. Có
gì vội đâu, chàng ơi, đời vẫn còn dài. Và đêm, đêm vẫn còn dài. Nhắm
mắt, Trãi mê dần, thân thể choãi ra rồi tê dại, mùi máu tanh đêm gặp rắn
lại bỗng thoang thoảng xông lên. Trãi hoảng hốt nhìn vào hạ thể người
con gái, hai bên đùi lem vết máu trinh tiết ứa từ cửa mình. Trãi tiếc
nuối như thể chính thân mình vừa mất mát rơi vỡ. Người con gái se sẽ
ngồi dậy. Giọt máu trườn theo chiều thon bắp đùi chảy dài xuống giây vào
bàn tay Trãi đang ve vuốt. Trong bóng đêm, mắt Trãi cay sè nhức bỏng.
Chàng bỗng chơ vơ như lúc lạc đường thuở chập chững tập đi. Trãi thầm
kêu, ơi hỡi, ta lại vừa đèo bồng đời một người con gái, lấy đi trinh
tiết. Ðể cho lại, liệu ta có gì ngoài cái khoảng trống hun hút trong
lòng. Và bờ vực chập chùng cạnh bước chân, với những câu hỏi vò xé tâm
can. Trong cái thế người bị trị cổ kê dưới lưỡi đao đầu kiếm, cớ sao ta
vẫn cứ một điều nhân nghĩa, hai điều tâm công? Sách Bình Ngô trích dẫn
những Thúc Di, Bá Tề, viện lời Khổng Khâu nói về Quản Trọng, kêu đuổi
giặc cốt để giữ lấy văn hiến. Nhưng như thế, ta bị chữ nghĩa cầm tù,
ngôn từ vây bủa. Cớ sao cứ phải lập lại những Luận Ngữ, Trung Dung ? Câu
đáp tên Hoàng Phúc, rằng Ðạo Thánh là của chung thiên hạ nhưng làm theo
Ðạo thì mỗi nơi một phách, chẳng qua đặng chẳng đừng ? Ði đến gốc đến
rễ, phải chăng há miệng mắc quai ?
Lảm nhảm, Trãi nói như hóa dại.
Người con gái ấp tay Trãi vào lòng, thỉnh thoảng gạt nước mắt cho Trãi.
Nàng se sẽ ru, như thể lời ru mang cái nhiệm mầu cứu rỗi mọi nỗi oan khổ
oán hờn. Trãi muốn xua tất cả đi để thực sự sống trọn vẹn một đêm.
Nghĩa là sống trong hiện tại. Với xác thân, thứ thuốc an thần êm ái dìu
vào giấc ngủ. Chàng tận lực lật cho nàng nằm úp lên mình, mặc cho đất
trời vần vũ quay cuồng. Cuối cùng chàng chỉ nhớ tiếng nàng thì thào :
- Chàng ơi ! Hạnh phúc có trong từng những cái nhỏ nhoi !
Nằm vật xuống, Trãi thả mình vào một miền đắm đuối có tiếng nỉ non van nài :
- Sự sống có đâu chỉ ở chuyện đại sự! Cứ như trẻ thơ. Ðừng gồng mình!
Hãy để mọi sự tự nhiên, như mây cao, như gió lộng. Ðừng lo đời thiếu
mình, để kết cục chính mình thiếu tất cả. Ðiều kỳ diệu của sự sống chỉ
nắm bắt được khi ta biết yêu biết quí từng cái nhỏ nhoi...
Khi Trãi
tỉnh giấc, nắng đã lẻn qua vách cửa hắt một giải vàng lung linh lên nền
đất đen sẫm. Chỉ chút hương bồ kết còn thoang thoảng. Mảnh hoa tiên có
bài thơ chàng đề đâu đó lại hiện ra nhắc nhở thì thầm. Gần hai mươi năm
sau, chàng vẫn ngâm nga bài thơ khi cảm thấy trống rỗng hững hụt. Nhưng
đến khi người ta gom tất cả thơ nôm của Trãi làm thành Quốc Âm thi tập
để lại cho đời, có ai ngờ họ chỉ giữ có câu đầu, góc thành nam, lều một
gian.

Đò Ngang
Chinh di tướng quân Tân thành hầu Trương
Phụ có tiếng là cọp. Nhưng con cọp đó đã một lần thấy thịt mà không dám
ăn. Chuyện xẩy ra năm Quí Tị, khi vận nhà Trần mạt đến độ chẳng ai còn
muốn cứu vãn gì. Tháng sáu, Vua Trùng Quang sai Nguyễn Biểu vào Nghệ An
mang sắc cầu phong đệ lên Minh Vĩnh Lạc. Ðặng Dung can ngăn, nhưng Vua
rớm nước mắt không đáp. Nhìn Biểu, Vua bảo, nếu khanh được việc thì
phong cho làm Tướng Quốc. Biểu cười, tay sờ lên cổ, đáp hạ thần chỉ xin
làm con ma giữ được cái đầu là đủ.
Lính đi kèm Biểu đưa vào tướng phủ rồi vái chào lui ra. Không thèm mời ngồi, Phụ nhìn sứ giả, hất hàm :
- Cứ nói !
Vái Phụ, Biểu chậm rãi, râu tóc dựng đứng :
- Vua chúng tôi thể theo chiếu chỉ Hoàng Ðế xướng lệnh lập lại hậu duệ
nhà Trần, sai đến trình ngài tờ sắc cầu phong, xin chuyển giúp về Yên
Kinh dâng lên Thiên Triều xét chuẩn.
Phụ hừ một tiếng, tay quơ ống
nhổ, miệng phì phì, mắt ngó lơ. Biểu bậm môi, tay dâng tờ sắc mắt chòng
chọc nhìn thẳng vào hai con mắt Phụ.
Hai con mắt đó xếch ngược, lồi
ra, lừ lừ vô cảm. Gân máu chằng chịt kéo che gần hết lòng trắng, mỗi
khi nó giựt ngược lên như động kinh, chắc chắn Phúc sẽ ra lệnh chém ít
nhất là một cái đầu. Ðám quan võ nhà Minh từ đời Vua trước gọi Phụ là
con cọp điên hóa tinh, nổi tiếng tàn bạo, đã xuất quân mà không thắng
thì không trở về. Và thắng đối với Phụ là tiêu diệt toàn bộ đối phương,
quân cũng như dân, người cũng như gà bò chó lợn. Ðưa tay ra giật rồi
quẳng tờ sắc xuống thư án, Phụ nhổ nước bọt, ồm ồm :
- Thua thì xin thua, có ai thua mà đòi làm Vua bao giờ ! Dối gạt lọc lừa làm sao được à...
Biểu cắn răng nhẫn nhục :
- Còn trời còn đất, chuyện thua được muốn bàn thì bàn đến bao lâu cho hết.
Phụ cười nhạt ngắt :
- Gớm thay, gan thế cơ à ? Ðến giờ này mà còn dám bàn được thua ư ?
Ðến bữa ăn, trên khay của Biểu chỉ có một đôi đũa và một cái đầu người ninh qua, mắt vẫn trừng trừng mở. Phụ bảo :
- ... Thiên Triều đến đây khai hóa để con dân Giao Chỉ thôi ăn sống
nuốt tươi, thôi trò dối gạt. Trùng Quang bây giờ thua nên mới xin cầu
phong. Dạ thế, gan thế mà cũng Vương mới Ðế !
Biểu không đáp, đẩy chiếc khay đầu người trước mặt Phụ, mời :
-... Ăn uống thế này là theo phong tục Thiên Triều, tôi có phúc phận
nay mới được thử. Tiền chủ hậu khách. Nay xin mời Tướng quân nhúng đũa,
tôi xin ăn sau cho đúng lễ...
Phụ tái mặt, râu tóc dựng lên, mắt giựt ngược. Biểu lại mỉa mai :
- ... Gan thế đấy, thì dạ thế nào ?
Thản nhiên lấy đũa khều con mắt, Biểu gắp chấm rồi bỏ vào miệng nhai rau ráu. Phụ quát mang chém Biểu. Biểu quát lại :
- Bên trong thì mưu kế đánh chiếm, bề ngoài thì rêu rao nhân nghĩa.
Miệng hứa lập con cháu họ Trần nhưng nước người ta thì băm vằm chia cắt
đặt thành quận huyện, rồi cướp bóc của cải, tàn hại sinh dân. Thực bay
là lang sói !
Phụ sai mang đầu Biểu trả lại Trùng Quang, thây mang
chôn ở Nghệ An, khiến Biểu quả là con ma không đầu. Nhưng tiếng con cọp
không dám ăn thịt với Biểu không biết làm sao lan đến tận Yên Kinh khiến
Sử quan nhà Minh sau này cũng mang ra chép lại.
Móng vuốt con cọp
Trương Phụ thật ra không ghê gớm so với thủ đoạn thâm hiểm của bọn Hoàng
Phúc, Mã Kỳ. Dùng bọn thổ quan bản địa, Phúc thăng Nguyễn Huân làm Tham
Nghị, Lương Nhữ Hốt và Ðỗ Huy Trung làm Tham Chính. Giả cách chiêu dụ
quan lại của triều trước để bổ đi các nha môn, Hoàng Phúc lừa bắt họ đưa
về Trung Quốc khiến đất Giao Châu như rắn không đầu, bọn nho gia, học
sĩ muốn tránh cảnh đầy ải phải ẩn vào rừng sâu núi cao. Học hiệu Ðông
Quan dùng người Minh giảng sách Ðại Học, Luận Ngữ, Trung Dung, Mạnh Tử
mang từ Yên Kinh qua. Sách vở của ta, từ Tứ thư thuyết ước của Chu An
đến Minh đạo lục của Hồ Quí Ly, cũng như những trước tác bằng chữ Nôm
như Quốc Ngữ thi tập của Chu An, Phi sử tập của Hàn Thuyên... đều bị
cướp sạch và đốt cho hết dấu vết.
Năm Ðinh Dậu, Trương Phụ chọn lấy
một đạo vệ sĩ làm Vi tử thủ, lắm việc cai trị không hỏi ý đến Mã Kỳ,
Hoàng Phúc. Phúc xui Kỳ tâu trình khiến vua nhà Minh ngờ Phụ định cát cứ
một phương, xuống chiếu gọi về và sai Phong thành hầu Lý Bân sang thay.
Những mâu thuẫn nội bộ khiến guồng máy cai trị bị nới lỏng. Ðám quan
quân ai nấy lo phòng thân mình, không khí kình chống lẫn nhau trong phủ
đường ở Ðông Quan thành câu chuyện đầu môi ở chợ. Nhân vật nắm quyền
bính nay thành cọp, thành chồn, thành cáo trong những mẩu chuyện thời
sự.
Con cọp liệu có vồ rồi tát cho chết con cáo không ?
Không ?
Cáo khôn lắm, nó mượn cớ đi Tây đô nương vào Phương Chính. Ngày nào họ
Lý chưa qua, nó đào đất rúc trong hang, vồ thế nào được !
Thế còn con chồn ?
Chồn thì không ưa cọp nhưng sợ. Thà là ở với cáo còn hơn !
Dân ta thì sao ?
Là giun, là dế. Cọp, chồn hay cáo thì cũng thế. Nhưng nghe đâu người
Trại có rục rịch ở Mường Nanh, Mường Thôi. Kẻ cầm đầu là Nguyễn Chích,
miệt Thanh Hóa...
Chích là ai ? Người thế nào ?
Là một người
như mọi người, nộp sưu thuế cao, đi cày nhưng không có cái để ăn. Ðói,
nên con giun cắt tóc đuôi sam mà thành rắn thành rết.
Rắn rết thì làm sao chống hổ beo ?
Rắn có nọc !.
Nọc có thật độc không ?
Dân hàng chợ hỏi nhau, rồi mỗi người trả lời một cách. Ðám làm ăn có
đồng ra đồng vào lắc đầu. Bọn cùng khổ gật. Những người cẩn thận thường
mũ ni che tai, lảng bằng cách không gật nhưng cũng chẳng lắc, chỉ cười.
Từ ngày có Học hiệu Ðông Quan dăm ba năm trở lại đây, học trò chẳng còn
bao nhiêu nên Trãi phải bốc thuốc Nam độ nhật. Thường khi có kẻ ốm
người đau là Trãi đến tận nhà con bệnh. Nghề thuốc, Trãi học với
Nguyễn-lão ngụ ở miệt Tây hồ. Người này tóc bạc trắng từ thuở đôi mươi,
thi cùng khoa với Trãi nhưng không đỗ, nay sinh nhai bằng nghề trồng hoa
và bốc thuốc. Thuốc thường là rễ cây, cỏ, lá và rong rêu. Bị quản thúc
trong thành, Trãi không thể tự mình đi tìm, thuốc men tùy vào cung ứng
của Nguyễn-lão. Chuyện độ nhật của Trãi ngày một khó khăn, phải nhờ tay
Xuyến thu vén cho một phần. Cứ dăm bữa nửa tháng, Xuyến từ Bát Tràng
vào. Biết chuyện Trãi từ chối chức Tham Nghị do Hoàng Phúc o ép, nàng
cười tủm, nói đùa ‘‘cho ngọt cho bùi không ưng thì cho roi cho vọt nhé !
’’. Trãi ngậm ngùi ‘‘ Roi vọt chẳng sao ! Nhưng hãm cho đóùi để rồi sẽ
mất nhân phẩm thì nhục lắm…’’. Xuyến ôm chầm lấy Trãi tức tưởi. Gục mặt
vào mái tóc nàng, Trãi găm tiếng thở dài vào bụng, khẽ cười gượng gạo.
Không có Xuyếán, chàng biết là mình không có điểm tựa dựa vào đó chàng
giữ được thăng bằng. Nhưng thăng bằng đó chông chênh theo thế cuộc cứ
chao nghiêng theo cái đà tuột vào hố sâu vực thẳm. Chẳng những vây hãm
sinh nhai, Phúc còn ra lệnh cho bọn quan binh đến tra hỏi nộ nạt những
người có chút liên hệ với Trãi. Họ sợ, lảng xa. Góc thành Nam, căn lều
một gian trở nên ngày một trơ trọi. Ngoài Xuyến, chỉ còn có gió. Những
đêm Xuyến ngủ lại, Trãi dập dờ bám được vào một cái neo. Cố định. Thủy
chung. Nghe Trãi bảo thế, Xuyến chỉ lên trời. Trời sao trên cao cũng
vậy. Xuyến lại chỉ ra xa. Dưới kia, dòng sông Nhị óng ánh còn đó, cũng
thủy chung như sao trời.
Tháng tám năm nay, lê dân xì xào bàn tán,
thấp thỏm đợi một sự đổi thay quyền bính. Trưa hôm rằm, Trãi về đến nhà
thì đã thấy Viễn ngồi đợi. Viễn đứng dậy, miệng nói :
- Có tin Trần Nguyên Hãn nhắn, bảo bây giờ bác đi là đúng lúc. Hẹn ở Trường Yên, Hãn sẽ đón...
Trãi cũng biết thời điểm này là lúc phải xổ lồng. Chỉ độ nhật hai ba
tuần trăng tới là Lý Bân qua nhậm chức. Hiện Trương Phụ không lo toan gì
ngoài chuyện chở tài sản về nước. Còn Hoàng Phúc, hắn đã cao bay xa
chạy vào Tây đô, sợ Phụ ra tay trả hận trước khi về Yên Kinh. Trầm ngâm,
Trãi nhìn Viễn, mắt dọ hỏi. Viễn tiếp :
- Chuyến này, em cũng đi.
Gia đình em đã tản hết vào Mường Thôi... Còn mồ mả các cụ, em nhờ người
coi sóc, cũng sắp đặt xong xuôi. Hoàng Phúc kỳ trước về cho bứng gốc hết
rặng đề trồng thành hàng mặt sau mộ cụ tổ. Mấy ngày nay, nó lại lân la,
đêm đêm đến xõa tóc cầu đảo, miệng cứ rú lên kêu ma gọi quỉ...

Trãi chạnh lòng, cười gượng. Từ thuở xa xưa chàng về với cha ở Nhị Khê
những tàn lá đề là bóng mát che nắng cho Trãi. Những ngày hè oi ả, Trãi
hay lên mộ tổ một mình, lẳng lặng từ lưng đồi nhìn về phía núi Tản tít
tắp thấp thoáng trùng trùng mây xa. Mây bắt nắng chói, ánh bạc loé sáng
trong trời xanh ngắt. Thỉnh thoảng ruộng lúa vàng non điểm trắng cánh cò
thong thả bay ngang. Gió động khua lá xào xạc. Con châu chấu tí tách
nhảy, chú bọ ngựa ngo nguẩy ngửng đầu dương cựa, đám chích chòe loạch
xoạch đuổi nhau chí chóe. Bây giờ cây đã trốc gốc. Mà nào phải chỉ có
cây, Trãi chua xót nghĩ ngợi. Ðến người cũng trốc gốc, thì xá chi một
rặng đề.
Hiểu cái nôn nóng của tuổi thanh niên bị thế cuộc câu thúc, Trãi quay nhìn Viễn, nhỏ nhẹ :
- Bao giờ ? Bao giờ chú đi ?
- Em định chỉ nay mai. Lên báo để bác đi trước. Khi Hoàng Phúc về Ðông
Quan thì không dễ như thế được nữa. Viễn đặt vào tay Trãi một cái ruột
tượng, ngập ngừng - Bác cầm theo...
Mở ra, Trãi thấy một ít bạc vụn và khoảng chục đồng tiền. Ngạc nhiên, Trãi hỏi :
- Chú lấy đâu ra ?
- Em chẳng ăn cướp của ai cả, bác đừng ngại...
- ...
Viễn bạnh hàm, mắt như đổ lửa, giọng nghiêm trọng:
- Hẹn bác hai ngày nữa lên đường. Bác đừng ghé Nhị Khê, cứ đi thẳng vào
Hoa Lư trong Trường Yên. Khi đi, bác đừng cho ai biết. Hai ngày nữa,
bác nhớ nhé !
Chuyện trò sắp đặt với Trãi xong, Viễn lại hấp tấp
xuống dốc. Nhìn cho đến khi Viễn khuất bóng, Trãi lẳng lặng vào nhà ngồi
trước thư án. Trãi bâng khuâng đếm quãng thời gian làm tù giam lỏng nơi
này. Ðông Quan, căn nhà tù khổng lồ của chàng, là nơi tương đối yên
bình cho dẫu rằng tạm bợ. Sắp xổ lồng, chàng bỗng cảm thấy một niềm bất
an. Tự do, có cái giá của nó. Con đường trước mặt do chàng chọn lựa là
con đường của bất trắc. Vạch cánh liếp chặn cửa, Trãi bước ra, vươn vai
hít một hơi dài vào đầy lồng ngực. Hai con chó ùa lại sủa, quấn quít vẫy
đuôi, rồi gục đầu kêu hinh hích. Hình như chúng tiên cảm thấy phút chia
tay. Trãi thò tay vuốt ve chúng, lòng bỗng buồn buồn như thuở tấm bé
phải rời Côn Sơn khi ông ngoại qua đời.
Nhưng việc trước mắt là
phải đi báo ngay cho Xuyến. Tất tả đến cửa Ðại Hưng, Trãi bị đám lính
gác thành chặn lại. Trãi tiếc không mang theo ít bạc vụn làm của lót
đường. Nhìn giải nước sông Nhị óng ánh cách ngăn, Trãi thở nhẹ rồi quay
bước. Hai ngày, chỉ đúng hai ngày nữa. Trãi nôn nao tính, khi xổ lồng
thì bỏ thêm nửa buổi đến với Xuyến, rồi ngược theo sông dọc vào Trường
Yên. Nhìn cánh chim bằng liệng ngang đầu, Trãi thành bầu trời lồng lộng
trên cao. Không còn gì có thể vướng víu kéo chàng ngược chốn lao tù.
Chàng thầm nhủ, giữa bất trắc và an bình, phải chăng tự do là cái gạch
nối tương lai vào hiện tại. Lạy trời, chính thế mà nó mang cái hấp tính
của một thứ mê lực không cưỡng lại được

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Quyền hạn của bạn:

Bạn không có quyền trả lời bài viết
Chia sẻ
Share

_____