cộng đồng pro forum chia sẻ
sân chơi teen - wed mới của admin - anh em vào phát triển


http://sanchoiteen.info
cộng đồng pro forum chia sẻ
sân chơi teen - wed mới của admin - anh em vào phát triển


http://sanchoiteen.info

Đừng nghĩ rằng bạn đang cô đơn bởi vì có ai đó đang sẵn sàng giơ tay cho bạn nắm. Hãy cùng chia sẻ để vơi đi nỗi buồn và tận hưởng trọn vẹn niềm vui trong cuộc sống này bạn nhé!



mọi ngườ đăng kí thành viên đi

số bài gửi vào diễn đàn số bài gửi vào diễn đàn :
325
:
ngày tham gia diễn đàn ngày tham gia diễn đàn :
10/04/2012
:
sở thick riêng sở thick riêng :
làm forum
:
LỜI MUỐN NÓI LỜI MUỐN NÓI :
thấy diễn đàn hay -thì đăng kí thành viên cùng phát triển nhé
thân : admin_hà
:
admin_hà
admin_hà

admin_hà
Admin

  • Admin
Cộng vào bản chất ác bạo và tham tàn của Trương Phụ, sự mềm mỏng nhưng
quyết liệt của Hoàng Phúc khiến chính sách bình định của nhà Minh vừa có
roi vọt vừa có ngọt bùi. Phúc tự phụ, trong lòng không coi bọn võ biền
ra gì. Một lần lỡ miệng, Phúc ví mình với Sĩ Nhiếp trước mặt Phụ. Lớn
tiếng huyênh hoang khai hóa đám man di Giao Chỉ, hắn hể hả ‘‘…lần này là
lần cuối, đất nhà Minh chạy cho tới châu Ái. Cứ ra đường thì biết. Ðàn
ông tết bím. Ðàn bà răng trắng, mặc quần. Trẻ con đi học thì dồn cả vào
Học hiệu Ðông Quan…’’. Thời gian đó, đám tôn thất nhà Trần đã yên phận
với những mảnh điền trang xót lại và một bọn gia nhân có đông cũng chẳng
quá được trăm mạng. Bọn nhà nho, cả khoa bảng lẫn không đỗ đạt, phần
đông đã chạy theo quyền lực làm sai nha. Nghĩa quân vùng Thanh-Nghệ có,
nhưng ít và rặt tinh thần địa phương, hoạt động khoanh vùng, chủ yếu chỉ
chống thuế và lao dịch nên chẳng có gì đáng lo ngại. Bảo với mọi người
nay là thời bình, Phúc mang Lễ – Nhạc từ Yên Kinh sang giáo hóa. Sau đó,
phủ Giao Châu quen dần với tiếng đàn lục thập huyền Ðại Cấu, tiếng chập
chỏa Tiểu Bạt, tiếng trống Phạn Cổ và tiếng kèn Tất Lật. Lương Nhữ Hốt
tiến cử cháu ruột mình là Lương Ðăng, một kẻ mê đàn hát và có chút năng
khiếu âm nhạc. Phúc tin dùng, sai lập một đoàn ca múa. Ðăng về Ðào xá,
huyện Tiên Lữ tuyển dụng.
Từ đời Lý, làng Ðào xá nổi tiếng, có
người con gái tên gọi Ðào thị hát hay đã được Lý Thái Tổ ban thưởng. Lúc
nàng mất, dân làng lập đền thờ, gọi thôn nàng ở là thôn Ả Ðào. Sau, con
gái trong thôn đều đổi ra họ Ðào, tạo nên một truyền thống với lối hát
gọi là hát ả đào, kết hợp nhạc dân gian với kiểu hát nói rất đặc thù.
Khi Ðăng đến, đám ca nhi bỏ chạy, chỉ bắt đâu được gần hai chục cô. Một
cô chạc mười bốn, tên là Ðào Nhi, về đến Ðông Quan sợ quá hóa câm. Ðăng
dùng Nhi vào việc giữ phách và đôi khi cho làm con múa. Ðào Nhi suốt
ngày lẳng lặng một mình, mài rồi vuốt ve cây trâm gài tóc dài một gang
tay, ai cũng bảo là hóa dại. Sau vài tháng tập tành, những ả họ Ðào
trình diễn cho bọn quan nha. Hoàng Phúc tươi cười dắt tay Trương Phụ vào
ngồi chính điện, phất tay cho bọn ca nhi bắt đầu. Khi hát bài Cảm Hoài
của Lý Bạch theo điệu Ức Tần Nga, Ðào Nhi giữ sai một nhịp phách. Phúc
nhăn mặt, bắt đánh lại. Ðào Nhi lại sai, mặt ngẩn ra, dáng sợ hãi. Phúc
cau có, đứng dậy bước lại gần. Bất chợt, Ðào Nhi vùng người, rút cây
trâm cài tóc lao lại nhằm cổ Phúc đâm thẳng vào. Phúc hoảng hốt té nhoài
ra sau. Cây trâm xướt qua da cổ, máu ứa, nhưng Phúc không mệnh hệ gì.
Một tên vệ sĩ nhảy lại đấm vào mặt Ðào Nhi. Nó ngã văng xuống đất, mũi
dập nát, mặt bê bết máu, nhưng chồm dậy hét ‘‘…kéo cổ cha tao ra chặt,
rồi xoạc cẳng mẹ tao để cưỡng dâm, bay thế mà bây giờ còn định giáo hóa
làm thày tao à ! ’’. Phụ phá lên cười. Phúc hoàn hồn, nhìn Lương Ðăng
chăm chăm, bắt Ðào Nhi bỏ ngục để tra xét. Ðêm hôm đó, Ðào Nhi cắn lưỡi
chết. Chuyện Nhi giả câm đồn đãi ầm lên trong nội phủ. Ðăng sợ, sáng sau
bỏ trốn. Lương Nhữ Hốt đập đầu xuống đất kêu oan, lạy Phúc rồi đem cha
đem mẹ ra thề bồi nên Phúc chỉ giáng Hốt xuống một cấp quan. Gọi Hốt
đến, Phúc bảo ‘‘ Mộ tổ nhà ta có xá tinh, chẳng chết thế được ! Nguy nan
gì thì cũng qua, chuyện bất đắc kỳ tử ta không sợ ! ’’. Ngay đêm sau,
Phúc làm lễ tạ sao, bắt Hốt làm con bù nhìn để quật roi, tiếng nghe chan
chát.
Mấy hôm vừa qua, Phúc với bọn sai dịch mang đèn hương để
cúng kiếng. Lần đến Nhị Khê này, Hoàng Phúc chọn ngày rồi cho đốn nốt
rặng đề nằm phía trái ngôi mộ hướng về Chí Linh. Rìu búa đốn cây đều bôi
máu gà, và trước đó bọn vệ sĩ đã yểm những lá bùa dài lòng ngòng trấn
bốn phương tám hướng. Bày ra trận hình bát quái, tay giữ quyết, tóc xõa,
miệng ngậm bùa, Phúc trấn trung ương trận pháp đã hai đêm liền. Ðêm nay
là đêm tế sao lần cuối. Trong số đám phục dịch, tự nhiên có người lăn
ra chết bất đắc kỳ tử. Hoàng Phúc có vẻ lo ngại, đi ra đi vào, miệng lẩm
bẩm một mình. Phục dịch cho hai đêm tế sao của Thượng thư Hoàng Phúc
gồm mười sáu tên vệ sĩ, thêm đám con hầu và cả Hà Trí Viễn, người quản
gia của từ đường họ Nguyễn. Dẫu gặp nhiều lần và có thử thách Viễn, Phúc
vẫn đề phòng. Lần thử thách cuối, Phúc bảo Viễn vào thư án lấy cho mình
tập sách tựa đề Giao Chỉ phong thủy chí. Viễn khệ nệ ôm cả chồng sách
ra. Phúc hỏi ‘‘... không biết chữ à ? ’’. Viễn lại rối rít lắc đầu như
tạ lỗi, tay đưa ra một quyển khác. ‘‘ Cũng không phải ! ’’, Phúc tai
quái nhìn. Viễn lôi một quyển nữa, nói ‘‘ Dạ, nó đây !’’. Ðó lại là tập
Liễu Tông Nguyên thi. Chắc mẩm là Viễn thực sự mù chữ như phần đông đám
tráng niên nhà quê, Phúc tự tay lục đống sách. Ðằng sau, Viễn nhìn chằm
chằm. Ðó là một quyển gáy xanh, chữ viết nhỏ, giấy mỏng nhưng dai. Liếc
nhìn Hoàng Phúc ghi chép, Viễn giả tảng như không quan tâm. Ðến đêm Viễn
rình biết là khi đi ngủ Phúc giấu nó dưới nệm giường.
Sẩm tối,
Viễn lên chùa Thiên Pháp tìm đám bạn tập võ với sư bác. Họ chụm đầu to
nhỏ, mặt mũi khẩn trương. Thì thào hai tiếng thoát ly với giọng thành
khẩn, Viễn mưu tính việc Viễn gọi là đại sự, không thành công ắt cũng
thành nhân. Sư bác không nói gì, chỉ niệm a di đà Phập rồi vào tụng kinh
sám hối.
Viễn quay về nhà khi đêm buông nhanh như chùm chăn. Trời
cao lồng lộng gió, sao chi chít nhấp nháy nhìn xuống mỏm đồi Nhị Khê
mang hình thể một con rùa ngửng đầu hướng về núi Tản. Chặt đi rặng đề,
con rùa cụt đuôi, ì ạch trên lưng đèo bọn vệ sĩ cầm cờ ngũ sắc đứng theo
bộ vị ngũ hành bao quanh Hoàng Phúc. Choàng một tấm áo trắng, tóc xõa
bay ngược chiều gió thổi, Phúc cầm kiếm chỉ trỏ rồi hô hoán điều động
đám vệ sĩ khi bước sang trái, khi tiến, khi lui, có lúc lại đứng tại chỗ
dẫm chân thình thịch. Ði vòng đám hình nhân làm bằng nan có bồi giấy vẽ
đủ mặt mũi râu ria, cân đai mũ mãng, Phúc hả miệng quát tháo hàng tràng
dài. Ngọn lửa đốt ở giữa đàn tế bốc cao rồi chao đảo theo chiều gió
tạt. Tiếng củi nổ tí tách. Tiếng Phúc phì phì thở. Rồi lại tiếng hô, lại
tiếng quát. Ðám vệ sĩ xoay vòng quanh, chốc chốc lại đứng ngây ra như
tượng rồi rống lên một thứ thanh âm nhọn sắc chọc vào tai như kiếm đâm
dao khoét. Mỗi lần như vậy, một chùm sao phương bắc lả tả rụng từng cái
một, kéo những vệt sáng lờ mờ lịm dần đi trong màn đen thăm thẳm.

Viễn không chờ được nữa. Ðâu đây, tiếng chó sủa lên gióng một. Lẩn vào
hàng hiên, Viễn đưa tay nắm con dao buộc lưng. Lại tiếng chó sủa. Rồi
tiếng cú rúc. Tên vệ sĩ ngồi canh cửa phòng Hoàng Phúc nhận ra Viễn, nhe
răng cười, miệng kêu ‘‘ nỉ hảo ’’. Viễn cũng cười đáp. Bất thình lình,
Viễn rút dao, lia một nhát vào cổ tên vệ sĩ. Nó ngạc nhiên, tay ôm cổ,
mắt trợn trừng, máu vọt ra thành vòi bắn tung tóe. Há miệng, nó định kêu
nhưng khí quản đứt chỉ phát ra tiếng ò ò. Viễn nắm lấy tóc nó, tay đâm
vào ngực rồi lách sang trái. Tên vệ sĩ nhũn người quị xuống. Ðúng lúc
đó, có tiếng hò hét, tiếng đao kiếm, tiếng gậy gộc ngoài sân. Ðồ chừng
đồng bọn đã ra tay tấn công bọn vệ sĩ, Viễn đạp cửa vào. Hai đứa con gái
theo hầu Hoàng Phúc ngơ ngác, kéo nhau ngồi dúm vào một góc, miệng kêu
be be. Viễn tiến lại, kéo tấm nệm trải giường tốc lên. Quyển sách gáy
xanh nằm đó. Viễn cầm, máu giây lên trang bìa. Ðúng là nó. Viễn giắt vào
lưng, quay lại nhìn. Có tiếng chân chạy rầm rập. Viễn nắm cây đèn dầu
ném thẳng vào đống chăn màn. Lửa bốc lên. Hai đứa gái hầu lại ré lên,
luýnh quýnh chạy ra cửa. Viễn thẳng tay rút cây côn giắt bên người quật
xuống. Những mảng óc vỡ óng ánh sắc lân tinh văng dính trên vách rồi
nhão nhoẹt chảy nhễu xuống.
Ðám bạn võ của Viễn chống không lại bọn
vệ sĩ vốn đã quen chiến trận. Họ lăn xả vào tìm cách giết Hoàng Phúc,
và cũng chính vì nóng lòng liều mạng, có dăm ba người chết uổng. Một
thiếu niên mới mười sáu bị chém đứt bả vai, quị xuống nhưng còn cố ném
thanh mã tấu vào người Phúc, miệng thét ‘‘ Thằng giặc Ngô, tao sẽ làm
quỉ bắt mày ! ’’. Thanh mã tấu chém xoẹt đi cánh tay tên thủ hạ đứng
chắn.
Phúc bị một phen kinh sợ, mửa ra mật xanh mật vàng, mặt cắt
không còn hạt máu. Sau lần chết hụt đó, hắn bớt khinh mạn đám man dân
Giao Chỉ. Bớt khinh, nhưng Phúc căm thù khi vào thấy mất quyển sách Giao
Chỉ phong thủy chí Phúc đã bỏ ra bảy năm ghi chép tỉ mỉ. Về phần Viễn,
chàng bỏ đi ngay đêm hôm đó. Không đến Trường Yên như hẹn với Trãi, Viễn
tính tìm đường về thẳng Kỳ Anh. Ở đó, Viễn sẽ chôn cuốn sách cướp được
của Phúc. Chắc chắn đó là một quyển sách quí. Rạng sáng, Viễn đến ven
sông Lô, rửa cho sạch máu dính trên tay trên mặt. Ngạc nhiên thấy có thể
một đêm giết một lúc ba mạng người, Viễn soi mình trong bóng nước, nhìn
chăm chăm như nhìn một kẻ lạ.
Khoảng cuối năm Dậu, tức là ba tháng
trước khi Trãi bỏ Ðông Quan ra đi , Nguyễn Phi Khanh qua đời. Chôn cất
cho cha xong, Phi Bảo mang vợ và hai đứa con từ Yên Kinh về đến Nhị Khê,
nhưng khi đó Trãi đã vào Thanh Hóa với Trần Nguyên Hãn. Cùng Nguyễn
Chích, Hãn dấy quân tại Mường Nanh, Mường Một và Mường Thôi. Ở vùng Lam
Sơn, một đại đầu mục họ Lê cũng phất cờ khởi nghĩa. Trên mạn Mường Mộc
trấn Gia Hưng ở phía bắc Ðông Quan, dân ba xứ Sơn Tây, Tuyên Quang và
Sơn La cũng theo Xa Khả Tham và Phạm Văn Xảo, binh tuy ít nhưng tinh, và
có cái thế hiểm hóc núi rừng nên đám quân Minh không làm gì được.
Khi Phi Bảo về đến làng thì Nhị Khê gần như vườn không nhà trống.
Hỏi ra, Bảo mới biết việc Hoàng Phúc mới bị hãm hại suýt chết. Phúc
quây dân lại tra hỏi, và lúc đó mới hiểu rằng kẻ chủ mưu là Hà Trí Viễn.
Viễn đã cao bay xa chạy. Phúc liền tìm bắt Trãi, nhưng Trãi cũng đã
biệt tăm. Tiếc cuốn sách ghi chép tỉ mỉ về phong thủy Giao Chỉ, Phúc uất
hận nằm bệnh đâu cả tháng. Khi khỏi, Phúc ra lệnh bắt đốt sạch ngôi nhà
từ đường họ Nguyễn và đào đất lấp con lạch ngay dưới chân đồi có mồ mả
tổ tiên. Bảo biết không ở lâu được, lại dẫn vợ con vào châu Ái tìm mẹ và
đàn em nhỏ. Gửi vợ và hai đứa con lại, Bảo ra Mường Một tìm anh.

Gặp mặt, hai anh em ôm nhau khóc. Chập chờn, hình ảnh Phi Khanh lại hiện
ra. Tai Trãi văng vẳng lời cha ‘‘ Làm trai thì về mà trả ơn nước, thế
mới là báo hiếu. Nợ nước trước, thù nhà sau. Nhớ lấy...’’. Rồi tiếng hát
quan họ đám chị em ca kỹ trên bước đi đầy chênh vênh đầu ải. Tiếng quát
của Liễu Thăng. Tiếng dao kéo lách cách của tay hoạn lợn họ Ðỗ. Tiếng
gió dập qua vách núi. Tiếng mưa rào rào trên những tàn cây rừng. Tiếng
chim quang quác hoảng loạn một đêm vang vọng mười ba tiếng hú của Hồ Quí
Ly khi đám mười ba đứa cháu bị thiến. Trãi nhắm mắt. Hình ảnh họ Hồ cắn
lưỡi bằng hai hàm chỉ còn lợi ập về, máu ứa ra đỏ loẹt râu hàm trắng
phếch. Râu tóc đó bồng bềnh trôi, như đám mây trắng nhuộm ánh dương buổi
sớm.
Nắm tay Bảo, Trãi lắc đầu xua đi những ám ảnh quá khứ. Lát sau, nghẹn ngào Trãi hỏi :
- Trước khi chết, cha có nói gì không ?
Giọng bùi ngùi, Bảo đáp :
- Cha nhắn anh rằng đừng câu nệ, kẻ nào đuổi được giặc Ngô thì đáng làm vua, không cứ là phải họ Trần hay họ Hồ...
Trãi gật đầu, nhìn Bảo, chờ đợi. Chép miệng, Bảo thì thào:
- Cha bảo, cái kế xưa đã bàn vẫn thế. Lui về Thanh Nghệ chiếm lấy Tân
Bình, Thuận Hóa làm thế lui. Lấy hiền hòa để dựa vào Chiêm quốc và Lão
Qua tìm sinh lộ lúc đường cùng. Nay Lý Bân đã qua thay Trương Phụ. Bân
tính không quả quyết, ngại chuyện binh đao, dã man tàn bạo so với Trương
Phụ thì một năm, một mười. Cờ như vậy là đã đến tay rồi !
Trãi thở dài, hỏi Bảo :
- Bên Yên Kinh, còn mất những ai ?
- Sau khi cha mất, Phi Hùng buồn, bỏ đi lang bạt từ bốn năm nay chẳng
tin tức gì. Quí Ly chết năm Thân. Các quan nay tết bím, cạo răng. Kẻ thì
đi buôn thuốc Bắc, người thì đi làm thư lại cho bọn nhà giàu. Hồ Nguyên
Trừng hiến cách đúc súng của ta, được Minh Thái Tổ phong làm Thị
Lang...
Một cơn giận bùng lên tựa lửa bắt vào củi khô. Nhăn mặt, Trãi đập tay buột miệng:
- Khốn nạn thật ! Hiến cho giặc cách đúc súng là cướp đi một khả năng
tự vệ của dân Ðại Việt bao lâu nay đã phải đương đầu với xâm lăng phương
Bắc.
Bảo nhìn anh, buồn bã :
- Còn lắm chuyện khốn nạn không
kém. Bọn có ăn học mang liệt kê mỏ vàng, mỏ sắt, gỗ quí,thổ sản từng
vùng cho quan quân nhà Minh biết mà lùng…
Thở dài, Trãi bần thần
nhìn em. Phi Bảo nay cao hơn Trãi dễ đến nửa cái đầu, hai bàn tay to gấp
hai bàn tay người thường. Khi nói, miệng Bảo nhếch lên cười, nửa như để
làm thân, nửa như định trêu chọc. Bảo kể, em lại sắp có thêm cháu nữa,
mong sao lần này là con trai cho có kẻ nối giõi. Hiện nay, Bảo đã mang
cả đại gia đình về làm rẫy ở cuối ngạn sông Lam. Khoe là tìm được một
vùng đất núi có thể trồng trà, Bảo định khi về sẽ bắt tay vào việc gieo
cây đã có ngọn, cách thức Bảo học được khi còn lưu lạc ở Giang Châu bên
Trung Quốc. Bảo lạc quan :
- …chỉ cuối năm nay là thu được mẻ đầu, sinh nhai đủ
thì khỏi lo. Anh nghĩ thế nào ?
Còn nghĩ thế nào nữa, Trãi thầm nhủ. Thân mình lo còn không nổi thì lo
gì được cho ai ! Tủi giọng, Trãi nắm tay Bảo, gượng nói :
- Chú lo
cho cả nhà như thế là chú lo hộ cho anh. Còn anh, thời thế này anh chẳng
tích sự gì, có dăm mớ chữ bây giờ nào có dùng được vào việc gì cho đáng
đâu !
Bảo lắc đầu, nhìn xa xăm, môi mím lại. Thình lình, Bảo xiết chặt tay Trãi :
- Chuyện sinh nhai cứ để em lo, anh đừng bận lòng. Còn chữ hiếu anh báo
cho cha như cha dặn dò là anh báo được cho em, cho cả nhà !
Lời
Phi Khanh dặn dò trên ải Phá Lũy lại đâu đó văng vẳng. Chàng nhớ lại, Hồ
Quí Ly ở Phá Lũy thổ máu ra mà vẫn hỏi, tại sao sửa soạn sáu năm, quân
đông tướng giỏi nhưng chưa đầy sáu tháng đã tan tành trước một đội quân
viễn chinh đến từ xa, lạ nước lạ cái, lại phần nào ô hợp, gồm đủ loại
tân binh bắt từ các châu quận biên giới. Tại sao ư ? Hồ Quí Ly là một kẻ
thượng thế anh hùng, nhưng vừa tham vừa vội, lại trọng pháp khinh luân.
Biết là phải có một bộ máy chính quyền tập trung để đối phó với nhà
Minh, Quí Ly chỉ dùng uy để áp chế, dùng mưu để khuất phục. Hơn ba mươi
năm nắm quyền bính, họ Hồ trước đây nào có làm gì. Ðến khi cướp ngôi nhà
Trần xong, sợ loạn nên mới hô hào cải cách. Thu kim khí thì bắt chước
đời Tống in tiền giấy rồi dùng pháp lệnh ức thương. Thất nhân tâm, Quí
Ly sai hạ cả chuông nhà chùa xuống nấu chảy ra để rèn gươm giáo. Lại e
đám hậu duệ tôn thất nhà Trần gia nô có hàng nghìn trong những điền
trang cỡ lớn, Quí Ly ra chính sách hạn điền hạn nô, sau đó nâng thuế
điền, thuế thổ lên thật cao nhằm để bức bách trưng thu đất đai làm ruộng
công. Thế là tài tụ, nhưng nhân tán. Sưu cao thuế nặng, lòng dạ hàng
dân hoang tán. Như vậy, lúc biến thì dựa vào ai ? Quân chưa đánh đã
chạy. Nhưng vì sao lại chạy ?
Nhắc lại chuyến đi tiễn cha với Bảo,
Trãi hồi tưởng đám dân đi sang Yên Kinh. Gọi là đi đầy nhưng Trãi ngạc
nhiên thấy sao họ lại có vẻ phấn chấn, rủ nhau buôn hàng chuyến, nào tơ
lụa, nào sừng tê, lộc nai, vảy kỳ đà... Họ tỉnh khô kháo với nhau về giá
cả, lời lỗ, chẳng thấy có gì là nhục mất nước, hận lưu vong. Lạ chưa!
Thế mà mới ngót ngét trăm năm trước, chính ông bà họ đã trấn áp được
giặc Nguyên quân hùng tướng mạnh! Trãi chợt hiểu. Người dân mang đổi
mạng sống đâu phải là chỉ bảo vệ mấy chữ non sông gấm vóc. Họ đổi mạng
là để bảo vệ những gì họ sẵn có trong tay, hoăëc những gì họ tin sẽ có
được trong tương lai.
Trãi nhìn về phía bản Tà Khương nơi Hãn đóng
quân. Hai năm ròng, tụ chưa được một nghìn nghĩa sĩ. Có đánh,cũng chỉ
mới đánh đám thổ binh và bọn Phiên quan đi thu thuế. Nợ nước chưa trả
được một phân lời, nói chi đến vốn. Còn thù nhà vẫn đấy. Theo năm tháng
chồng chất thêm lãi, mối thù ngày một nặng trên vai. Cúi đầu, Trãi
nghiến răng, nói mạnh :
- Cứ tin anh, rồi thù nhà sẽ trả !
Khi chia tay, Bảo nhìn thật lâu vào mắt anh, dặn dò :
- Anh cẩn trọng giữ mình…Một khi chuyện sinh nhai yên ổn, em sẽ đến xung quân.
Mậu Tuất, 1418, Minh Vĩnh Lạc năm thứ 6.
Ít lâu sau khi Trương Phụ về Yên Kinh, hàng dân Thanh Hóa đồn đãi về
việc khởi binh của mười tám người hội thề ở Lũng Nhai. Thế nghĩa quân
Lam Sơn rầm rộ đến độ bọn Thổ quan hạ lệnh cho lính trấn thủ án binh bất
động, báo hỏa tốc về cho Lý Bân và Hoàng Phúc nguy cơ một cuộc bạo loạn
tầm cỡ có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Nhân lúc quân Minh hoang mang,
Trần Nguyên Hãn bàn với Nguyễn Chích rồi đưa binh chiếm Mường Thôi. Lúc
ấy, Trãi đã vào với Hãn, tính kế thôn tính Nghệ An, nhưng Hãn vẫn ngại
lực lượng mình còn quá mỏng.
Hãn cho người thăm dò, biết rõ Lê Lợi ở
Lam Sơn nắm được một địa thế rất thuận lợi về việc quân binh. Khi đó,
Lý Bân vẫn chùng chình không chịu xuất quân chi viện mặc dầu bọn Phiên
quan và Thổ quan ở Tây đô kêu cứu. Một sáng, Hãn bất ngờ đến nơi Trãi ở.
Cười hềnh hệch, Hãn oang oang :
- Này, đêm qua ta nằm mơ.
- ...
- Ta với chú đi vào sơn lâm. Ði mãi. Rồi chú chỉ, đền kia kìa. Giữa
rừng già, ngôi đền mái đỏ hiện ra. Chú lại bảo, đền bà Chúa Tiên Dung
đây, vào vái một vái. Vào thì vào. Vừa qua ngưỡng cửa, chú chỉ tấm vách
có nắng chiếu lên. Nắng nhảy múa, vạch những làn chỉ sáng ngoằn ngoèo.
Chú đọc ‘‘ Lam Sơn dấy nghĩa, xã tắc tất thu...’’. Có phải chú đọc thế
không ?
Trãi đoán ra ý Hãn, dí dỏm :
- Không ! Chữ viết ‘‘ Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần ’’.
- Thế còn ta thì sao?
- Huynh thì bà Chúa đền chỉ nói miệng thôi.
- Nói gì ?
- Nguyên Hãn đệ nhất khai quốc công thần, huynh không chịu thì thôi, không mặc cả gì nữa !
Ha hả cười, Hãn vỗ vai Trãi :
- Anh em mình phải đích thân đi một chuyến vào Lam Sơn.
Trãi hỏi, vẻ mặt ưu tư :
- Ðã bàn với Chích chưa ?
- Bàn rồi. Chích đồng lòng nhưng bước đầu chỉ đề nghị liên minh. Ai đâu giữ đấy, nếu động thì cứu viện trợ chiến cho nhau...
Trãi thở ra, chậm rãi :
- Sau phải tập trung để phối hợp, trên dưới một lòng, không thể để mỗi
nơi một phách được. Giặc mạnh mà ta yếu, lại chia thành năm bè bảy mảng
thì hỏng...
Hôm sau, hai người lên đường.
Từ huyện Thọ Xuân đi
về hướng Tây dọc bờ sông Chu, dân cư thưa thớt dần. Men chân núi Pù
Rinh, hai người dẫu không thấy một ai nhưng có cảm tưởng bị rình rập.
Vòng vèo đi thêm quãng nửa ngày, Hãn và Trãi đến Lư Sơn, một vùng đất
dốc nhưng bằng phẳng. Ðằng xa, cỏ mọc xanh rì chạy đến chân núi Lam sừng
sững chắn ngang mắt. Theo lối cỏ đạp, hai người men tới. Lát sau, thấp
thoáng xa xa có bóng người đội nón mê vai vác bừa, đang ruổi một con bò
vàng. Hãn nhanh bước đến gần, miệng gọi ‘‘... nhà bác ơi, cho hỏi thăm !
’’. Người đó ngừng chân, ngoảnh lại ngơ ngác, tay đưa lên má vân vê túm
lông mọc trên một cái nốt ruồi to bằng đồng chinh bên má. Trãi thở hồng
hộc đuổi theo. Ðến chỗ hai người, Trãi vấp vào một mô đất, ngã chúi
xuống. Hãn vội đỡ, miệng lại đùa ‘‘ Chú em tôi là loại văn nhược, quen
chốn kinh kỳ ! ’’. Miệng suỵt bò, người kia cộc lốc ‘‘ Hỏi gì ? ’’. Hãn
đáp ‘‘ Nhà bác có biết đại đầu mục họ Lê ở Lam Sơn đâu không ? ’’. Lại
vân vê nốt ruồi, người đó lạnh lùng ‘‘ ...vào trong kia mà hỏi ! ’’. Tay
chỉ về Tây, hắn quay ngoắt người, miệng suỵt bò, đi thẳng về phía Ðông.

Khi bóng dương loạng choạng ngã xuống cánh rừng chồi, một dãy nhà
sàn hiện ra trong tầm mắt. Vắt vẻo trên những dãy cột cắm vào lòng đất,
nhà thấp cao khác nhau, nương vào triền đồi vạt ngang thành ruộng mạ
đang độ mọc xanh non. Một đám tráng đinh đã đợi sẵn Trãi và Hãn. Họ quấn
khăn trên đầu, mặc áo cụt, chân trần, tay lăm le đinh ba, mã tấu. Ðưa
hai người đến căn nhà bề thế nằm cuối dãy, họ vào thông báo. Lát sau, ba
người trong nhà bước xuống thang, một trong bọn xông lên, miệng cười
hớn hở :
- Thế là hai bác. Em đây...
Trước mặt Hãn và Trãi là Hà Trí Viễn. Trãi reo :
- Ối giời đất, chú đấy à ! Mất tăm mất tích cả hai năm ròng, giờ thì hóa chú ở đây...
- Em đến mới bốn tháng nay, từ ngày đại đầu mục đánh chiếm Mường Yên.
Nhìn Trãi, Viễn ngần ngừ - Sau khi rời Nhị Khê, em vào Nghệ An rồi về Hà
Tĩnh. Hỏi biết bác đã gặp bác Hãn, em yên tâm.
Chưa kịp hàn huyên, đã có tiếng giật gọi. Viễn đẩy Trãi và Hãn lên thang, miệng thì thào ‘‘ Hai bác cứ lên đi…’’.
Lên đến tầng trên, hai người trung niên bước ra vái chào rồi đưa khách
vào phòng bên. Cửa mở, một tráng niên xấp xỉ bốn mươi tuổi, người tầm
thước nhưng to ngang, đứng lên. Tay vê nốt ruồi có túm lông má phía
trái, người đó cất tiếng, thanh âm trọ trẹ :
- Xin chào hai vị. Lẽ
ra là phải nghênh tiếp hai vị trưa nay, nhưng lúc đó lại bận chăn bò.
Giọng dí dỏm, người đó nhìn vào mắt Hãn, tiếp - Vả lại, bui có xưng là
Lê Lợi lúc đó thì quí vị hẳn chẳng tin. Kẻ nghịch ngạo vừa phá Mường Yên
mà gặp ai cũng xưng tên xưng tuổi như thế thì chẳng khác nào là tự mình
đưa cổ vào tròng cho giặc Ngô à...
Hãn nghiêng người, tươi cười :
- Cẩn trọng là yếu tố thành đại sự. Cho theo giám sát chúng tôi từ lúc
vào địa phận Ngọc Sơn và Lư Sơn, quả đại đầu mục đã không xem thường
ngay cả chuyện nhỏ. Lại có Hà Trí Viễn, chắc hẳn đầu mục biết rõ tông
tích chúng tôi rồi.
Cười xòa, Lê Lợi mời hai người vào. Trong phòng
lúc đó chỉ rặt bọn võ tướng, trừ Lê văn Linh là một kẻ có bõ bẽ học
hành. Ngoài bọn Lê Sát, Lê Ngân, Lê Nễ còn có Lưu Nhân Chú, Ðinh Lễ...
trong đám hội thề Lũng Nhai. Lợi lên tiếng :
- Chúng ta bàn việc ngay, để đến tối sẽ cùng nhau uống dăm chén rượu.
Việc bàn bạc khá chậm, phần vì Lợi thận trọng, từng bước thăm dò lực
lượng nghĩa quân Mường Thôi. Buổi tối, cỗ dọn ra. Quây quanh những chiếc
mâm đồng la liệt chén đĩa và từng tảng thịt lợn, đám võ biền tự tay lấy
dao xẻ, bốc chấm nước mắm, nhai rau ráu. Nhìn Lợi cắt miếng tai lợn cắn
sồn sột, Trãi nói nhỏ vào tai Hãn :
- Bà Chúa Tiên Dung lỡm ta mất rồi !
Hãn nhìn Trãi giễu cợt, thì thào :
- Cứ để xem !
Quay về phía Lợi, Hãn đưa bát rượu lên ngang trán chúc mừng đại đầu mục
cùng chư vị nghĩa sĩ Lam Sơn, cười lớn rồi uống ừng ực một hơi cả bát.
Sau hai ngày bàn bạc, Lê Lợi thỏa thuận đưa một cánh quân xuống trợ
giúp nghĩa quân Mường Một khi Lý Bân động binh xuống đánh. Nếu thắng,
không nói làm gì. Trong trường hợp thua, nghĩa quân có thể lui đến sách
Lư Sơn thuộc địa phận Lợi kiểm soát. Hãn hiểu mình là ở vòng ngoài, Lợi
sẽ có thêm lực lượng bảo vệ Lam Sơn, nhưng không nói gì thêm. Trong đầu,
Hãn tính phải đóng thuyền và xây dựng một đội thủy binh. Khi cần, dùng
đường biển mà chạy. Và xét cho kỹ, thủy binh sẽ tạo sức ép vào Tân Bình
và Thuận Hóa. Lúc thời cơ tới, đó là lực lượng đánh từ ranh giới Chiêm
xuống. Phối hợp với quân bộ từ Thanh Hóa tiến vào Nghệ An thì cái khả
năng chiếm được phần cực Nam của Ðại Việt làm bàn đạp là có.
Hãn
lân la tìm Viễn nhưng lúc nào cũng có người đi theo giám sát, không hỏi
được gì thêm. Bề ngoài nhìn, rất khó đánh giá lực lượng thực sự của Lợi.
Hãn hỏi thẳng :
- Ðầu mục giúp được bao nhiêu quân ?
- Năm trăm, thêm voi hai thớt và một trăm dũng sĩ đội Thiết Ðột !
Hãn đoán chừng đó có lẽ là một phần ba lực lượng của Lợi. Sau, Hãn biết
là mình nhầm. Gần như đó là toàn bộ chiến binh Lam Sơn.
Trước hôm chia tay, Lợi tìm Trãi kéo ra một góc đồi. Lợi hỏi, giọng thành khẩn :
- Tôi nghe Trí Viễn nói ông có sách Bình Ngô, có mang theo không ?
Trãi ngần ngừ, tay chỉ vào đầu, mỉm cười :
- Sách tôi không mang theo, nhưng vẫn nhớ …
- Thế thì xin ông chỉ giáo cho chúng tôi là bọn nhà nông mông muội.
Thật tình, giặc bắt bức, tôi nhún mãi nhưng chúng cứ xấn tới lột thóc,
lột lúa. Không nhún được mãi, tôi mới kéo người nhà vào Lam Sơn chứ có
phải có ý đồ to lớn gì đâu...
Buổi tối cuối cùng ở Lam Sơn, Trãi
mới có dịp chuyện trò với Viễn. Nay, Viễn đã đưa toàn bộ vợ con vào ở Hà
Tĩnh. Hai năm qua, Viễn lại đẻ thêm hai đứa, trề môi khoe là toàn con
trai. Kéo được dăm chục dân đinh, Viễn dậy võ cho họ. Ðến khi có biến ở
Mường Yên, Viễn kéo đồng bọn về ra mắt Lê Lợi và xin sát nhập vào nghĩa
quân, hiện là phó tướng dưới quyền Lưu nhân Chú.
Bữa tiệc chia tay,
Trãi xin với Lợi cho Viễn tham dự. Ðến cuối tiệc, Lợi trân trọng mời
Trãi nói về Bình Ngô sách. Uống được một vài chén rượu, Trãi nhấp giọng,
rồi mạnh bạo :
- Nhà Minh thâm hiểm, cướp nước ta, chia châu, đặt
huyện, thay đổi phong tục bắt để răng trắng, bím tóc dài, biến người ta
thành người Ngô. Hoạn loạn đã đến tột cùng, dân ta gan óc lầy đất, xã
tắc thành gò cho thỏ chui cáo chạy, làng mạc hoang phế hóa ra bãi hoang
cho chim đỗ, rừng rậm cho hổ beo trấn ngự. Hoạn loạn tột cùng thì trịï
bình ắt tới, đó là vận hành của trời, hanh thông của thời. Thiên thời ở
một chữ Tâm, lấy gậy làm cờ thì nhân tâm là gió để phất. Nhân nghĩa càng
sâu, ảnh hưởng càng xa, không đánh cũng thắng, vận hội bắt đầu xoay
vần... Bình Ngô dựa vào sách Tâm công. Ðầu tiên là Nhân Nghĩa. Giặc lấy
hung tàn, ta dùng đạo nghĩa. Việc nhân nghĩa cốt để yên dân…
Ngồi
cạnh, Hãn nhìn phản ứng chung quanh, lẳng lặng bấm tay Trãi. Trừ Lợi và
Linh nghe chăm chú, đám võ biền ngơ ngác rồi tiếp tục ngồm ngoàm đánh
chén. Ðợi cho Trãi dứt lời, Ðinh Lễ là em cô cậu của Lợi, tợp một ngụm
rượu rồi ồm ồm hỏi :
- Ừ thì Tâm công, nhưng cũng cần đại đao mã tấu để mà chém giặc chứ. Ông chỉ rao nhân nghĩa có đuổi được chúng đi không ?
Bọn Lê Vấn, Lê Ngân, Lê Sát... được thể cũng nhao nhao lên mỗi người
một tiếng. Sát cùng tuổi nhưng thuộc hàng cháu Lợi, cao giọng :
-
Ông người Kinh lộ có học, nhưng hiểu thì ông chỉ hiểu chút ít về đám lê
dân chúng tôi xưa nay có chữ nghĩa gì đâu. Bảo với hàng dân là tâm công,
không đánh cũng thắng, thì người ta gọi thế là đánh giặc bằng nước bọt
nước giãi, chẳng có ai tin theo đâu...
Trãi giật mình thót bụng.
Những điều chàng tin không hiển nhiên như chàng nghĩ. Hồi tưởng buổi gặp
Hãn và Xảo ở phường Yên Hoa, Trãi nhớ lại thái độ có chút ngờ vực của
cả hai người vốn chẳng phải là hạng tầm thường. Nhìn cách hành xử của
đám võ tướng Lam Sơn, Trãi thấy thật rõ cái khoảng cách giữa mình và họ.
Lợi có vẻ ngượng ngùng, khoác vai Trãi đứng dậy rồi kéo ra. Khinh
khỉnh, Sát nâng chén quay về phía Ngân và Lễ, hô to ‘‘Cạn chén nào, bất
chiến tắc thắng cũng như không uống mà say. Nước lã là rượu, anh em ơi !
’’. Cả bọn lăn ra cười ngả cười nghiêng. Nhìn Lễ khạc nhổ phì phì, Hãn
phá lên cười, lôi Viễn đứng dậy. Khi ra đến cửa, Hãn quay đầu nói với
lại :
- Kính chào chư vị ! Chư vị cứ uống, hễ say là thế nào giặc
cũng sợ. Say rồi nói tục, thế nào giặc cũng hãi. Nói ngông, nói cuồng
không còn phép tắc, thế nào giặc cũng chạy. Sách ấy gọi là tửu công,
uống đến nôn mửa ra là bách chiến bách thắng, ha ha ha...
Ngoài
hàng hiên, Trãi mặt trắng bệch nghếch mắt ngó lũ võ biền bò lăn bò càng
trên chiếu rượu. Hãn ghé vào tai Trãi thì thào ‘‘... Dám là bà Chúa lỡm
anh em mình thật ! ’’ rồi bước xuống chân nhà sàn. Viễn đã đứng chờ, nét
bực bội hiện trên mặt. Lợi bước theo, nắm tay Trãi, ngập ngừng :
-
Ông bỏ qua cho họ. Họ là những người chất phác, nghĩ gì nói nấy. Cứ gặp
người Kinh là họ sợ bị phỉnh bị gạt, nên họ nghĩ ông lỡm họ không chừng
!
Không về ngay Mường Một với Hãn, Trãi ngược ra Hoa Lư đi tìm Ðạo
Khiêm đã bặt mất tin từ lâu. Ngồi chống con đò lắc lư cạnh bờ, Trãi
ngửng lên. Vòm lá trên đầu xanh mởn buổi đầu xuân đu đưa trì kéo bóng
cây trong dòng nước lơ lửng khoan thai trôi về cuối ngạn. Vút cao trước
mắt, triền núi chót vót không thấy ngọn ưỡn lên với lấy khoảnh trời
trong vắt.
Nhà đò vạch bụi ló ra tươi cười :
- Nhà cháu hỏi
được rồi, ông ạ. Chùa Thiện Chính còn ở tít trong, chống thêm nửa ngày
mới đến. Nhìn trời, nhà đò lẩm bẩm - Xuôi gió, chắc vào giờ Mùi thì là
tới thôi...
Trãi giúp đẩy con đò tròng trành ra giữa dòng. Ðứng đầu mũi, nhà đò chống rồi đẩy, mắt hấp háy nắng chói.
- Nhà đò có mấy cháu ?
- Dạ, sáu. Hai trai, bốn gái.
- Các cháu lớn chưa ?
- Con gái đầu năm nay mười lăm. Ðứa út thì lên năm, thưa ông.
- Ðông con, chắc vất vả nhỉ ?
- Nhà cháu làm đồng, xong lại đánh cá. Nhờ trời, cái ăn không đủ nhưng
chưa đến nỗi đói mà chết. Năm nay con bé lớn đi lấy chồng, đỡ một miệng
nhưng lại thêm việc...
Ðổi câu chuyện, Trãi dè dặt :
- Ở vùng này có yên không bác ?
- Trừ cuối vụ khi quan quân từ đồn Ninh Hạ đến thu thuế, còn lại thì cũng yên...
- Khi thu thuế thì sao ?
- Hàng dân giấu thóc, giấu tơ. Quan quân thì khám, rồi thu. Không thóc,
không tơ phải nộp tiền. Không tiền thì tra khảo đánh đập đốt nhà phá
cửa... Hoặc bắt phu dịch, đi mò châu, săn voi, bắt gấu. Cứ đến cuối vụ
là hàng dân ẩn vào rừng sâu, núi cao... Trong rừng có giấu cung nỏ dao
kiếm. Vào lùng bắt thì phải chống lại, năm nào cũng có người tử thương.
Chép miệng, Trãi hỏi :
- Giờ thì thế, nhưng trước thì sao ?
- Thời tiền triều nhà Hồ có đỡ hơn một chút, nhưng lại bị nạn bắt lính !
Nhà cháu cũng xung quân đấy chứ. Bị vây ở Lỗi Giang, lính chúng cháu
hỏi nhau liều chết mà đánh giặc Ngô để làm gì ?
- ...
- Có đứa
bảo, non sông mình thì mình phải giữ. Ðứa khác chửi rồi hỏi mày có giữ
thì giữ cho ai, chứ chẳng phải mày giữ cho mày. Giữ thì mày được gì ?
Còn non sông thì vẫn đó, giặc nó có lấp sông dời núi đâu... Thế là mười
phần bỏ chạy đến chín !
Trãi chợt nhớ một câu chuyện trên đường ra
Phá Lũy năm xưa. Trước sự thất bại quá nhanh của nhà Hồ, Trãi lân la hỏi
gần hỏi xa, chuyện trò với một anh thợ rèn. Anh ta bảo từ khi Quí Ly
lên ngôi vua thì anh ta phải nung chuông đổ sắt, rèn gấp đôi, toàn là
đao kiếm cho triều đình. Trước, anh nuôi được vợ con. Sau, anh chỉ nuôi
được con, vợ phải đi ở đợ. Ðến khi quân Minh qua, anh ta bị bắt lính.
Anh nghĩ, đánh nhau mà thắng thì lại tiếp tục rèn gấp đôi, chỉ nuôi được
con, vợ vẫn đi ở đợ. Thôi thì vua quan nào cũng được, miễn là cho sống
thì vua quan người Ngô hay người Việt cũng thế. Vậy thì thua, thua cho
nhanh là thượng sách. Bạc là dân, bất nhân là lính ? Trãi thầm hỏi.
Không. Không phải là dân bạc. Bắt họ sống chết bảo vệ cho vua quan là
những kẻ đẩy họ vào cảnh khốn khổ ư ? Dùng lời lẽ hão huyền những là tự
do với độc lập, rồi sau đó lại sưu cao thuế nặng, lại nô lại dịch thì
thử hỏi ai bạc hơn ai ?
Nhìn nhà đò, Trãi chậm rãi :
- Không lấp sông dời núi, nhưng nay giặc bắt mình làm tôi mọi, cấm búi tóc, vấn khăn, nhuộm răng, mặc váy...
Nhà đò nhìn Trãi, vẻ ngạc nhiên nhưng chỉ hềnh hệch cười :
- Úi dào, thì có thế thật. Nhưng thưa ông, chỉ vậy thì không sợ.
Trãi gặng :
- Thế thì sợ gì ?
- Sợ nhất vẫn là sợ đói, mà đói thì vì sưu cao thuế nặng. Năm đầu giặc
chiếm đóng, hàng dân nói với thổ quan xin giảm thuế là theo, còn chống
là chuyện của mấy ông đồ nho lắm chữ lắm nghĩa. Nhưng sau, sưu thuế cứ
tăng dần, bọn thổ quan thổ binh đè đầu bóp cổ, nhũng nhiễu đến không
sống được. Ở Mường Thôi, người ‘‘ trại ’’ chống thuế đào hào đắp lũy.
Rồi Mường Nanh cũng bắt chước nổi dậy... Sắp loạn, mà loạn to đấy. Nhà
cháu nghe nói ở châu Ngọc Ma, quan quân nhà Minh bị đánh tan tác, không
biết có phải không ?
Trãi giả tảng không nghe, quay đầu nhìn lên
triền núi. Từ vách đá, dẫu chỉ có chút đất cằn, những nhánh cây khẳng
khiu vẫn đâm ra ngạo nghễ chọc ngang trời. Sự sống, điều huyền diệu tự
biện minh cho tất cả. Chết vì non sông gấm vóc, vì trung quân ái quốc
chỉ thuần từ miệng lưỡi thêu vẽ huyễn hoặc. Ðó là bài học Trãi thấm thía
nhờ bác nhà đò và anh thợ rèn. Và nghĩ lại, cái sách Tâm công như Trãi
trình bầy với đám võ biền Lam Sơn không một mảy may thuyết phục vì đúng
nó cũng chỉ là ngôn từ. Nhưng Trãi vẫn băn khoăn. Thế thì những con
người bình thường kia có thể chết cho cái gì ? Ðộng lực nào khiến họ dấn
thân chấp nhận mang đời mình ra đánh đổi ?
Ðể sốâng !
Liều
chết để tìm ra đường sống ? Có thể lắm. Nhưng nếu không chỉ phát xuất từ
bản năng mà là một chọn lựa bó buộc thì liều chết để tìm ra đường sống
lại là nghịch biện oái oăm và thê thảm nhất của loài người. Từ khi nghĩ
ra điều đó, mọi chủ đề trong Bình Ngô sách sau viết lại đều dựa trên nền
tảng sự sống. Cho một tập thể của những con người có thật. Tức là những
con người biết sợ đói và tìm cách tồn tại sống còn với mọi quyền lực.
Chùa Thiện Chính, lửng lơ giữa trời và đất, mang dáng dấp nửa thiên
tiên nửa phàm tục. Từ bờ sông, lên một dốc núi vây quanh chỉ có vách và
vực. Cây cao nhìn xuống thấy thân mà không thấy gốc, um tùm lấn mọc đến
tận rìa núi chênh vênh. Chùa gồm năm gian, chĩa xòe ra như trạm trổ vào
lòng đất một mỏm núi chót vót, ngạo nghễ nhìn ra dòng sông Mã quanh co
tít tắp chân mây. Sân chùa vắt vẻo giữa hai hàng bạch đàn, phía trước là
một phiến đá bằng phẳng óng ánh nhô ra vực núi sâu hoắm nhìn xuống mà
chột dạ.

Vạch cây leo lên đến cổng chùa, Trãi nhờ một chú tiểu vào thông báo. Lát sau, Ðạo Khiêm thủng thẳng bước ra, miệng reo :
- Thí chủ ! Cái hẹn trên đường về xuôi từ ải Phá Lũy thế mà đã quá mười
năm rồi. Thảo nào bần tăng máy mắt cả tuần trăng, không đoán được là
gặp cố nhân.
Trãi vái Ðạo Khiêm, tươi cười :
- Ðến ăn của bố
thí nhà chùa dăm bữa, kẻ ăn mày này không có gì dâng lên lễ Phật, xin
thày mở lòng từ bi đánh cho hai chữ đại xá.
Nắm tay Trãi, Ðạo Khiêm nhìn tròng trọc :
- Hề gì, rau cỏ là của cả nhân gian. Này, thí chủ tóc có bạc đi nhưng
vẫn thần thái lắm. Bần tăng xin mừng. Nào, vào đây, vào đây...
Vừa
nói, Ðạo Khiêm vừa kéo Trãi đi, miệng gọi chú tiểu ra xách cái bị Trãi
mang theo bên mình. Trong chiếc áo nâu sồng phủ đến gót chân, Ðạo Khiêm
gày gò nhưng rắn chắc, nhẹ lướt đi trên nền sân đất nện. Dưới hàng lông
mày rậm rì nay đã bạc thếch, mắt sư lung linh sáng quắc lên dưới ánh
nắng đầu trưa. Ðến thềm, Sư đẩy Trãi vào trước, rồi bắt ngồi, miệng vui
vẻ :
- Uống với nhau ấm trà đã nhé...
Sau tuần trà, Trãi quá
mệt xin phép đi nằm. Khi tỉnh giấc sau một cơn ngủ vùi, mặt trời chỉ còn
là một vệt lay lắt sáng cuối chân mây. Cơm chiều nhà chùa có cà dầm
tương và rau rừng luộc với gừng non. Ăn xong trời đã xẩm tối. Ðạo Khiêm
thắp đèn, nhẩn nha :
- Bần tăng ở cửa Phật thì yên ổn đã đành, chứ thí chủ chắc là chẳng sóng cũng gió.
Chép miệng, Trãi kể lại mười năm sống trong sự quản thúc của Hoàng Phúc
ở Ðông Quan để bảo toàn mạng cho cha đi đầy. Khi nghe cha mất, Trãi
định bụng thoát ly, nhờ Hà Trí Viễn liên lạc với Hãn. Hãn hẹn chàng vào
Trường Yên. Chưa kịp sửa soạn, Phạm Văn Xảo biết giặc rục rịch, cho
người đến đưa đi ngay. Quả nhiên, tối hôm đó quân Minh đến xục xạo góc
thành Nam để bắt chàng. Nhưng lúc ấy, Trãi đã theo cửa Tây đến ven sông,
xuống ẩn trong một chiếc thuyền buôn. Hai ngày sau, thuyền nhổ neo rồi
dọc sông Nhị, ra tới biển men bờ chạy vào cửa Thần Phù. Thuyền đi được
một ngày thì gập bão. Thật một sống hai chết, đúng làthuyền ai đội sóng
Thần Phù, khéo tu thời nổi vụng tu thời chìm. Lên được bờ, Trãi theo
đường bộ vào Trường Yên như đã hẹn, nhưng đợi mà không thấy Viễn. Mãi
khi vào đến Thanh Hóa, Trãi mới biết là Viễn đã rời Nhị Khê sau lần ám
toán hụt Hoàng Phúc. Kể đến đấy, Trãi quặn lòng nhớ đến Xuyến. Chàng ra
đi mà không thể ghé đến giã từ Xuyến như dự tính. Và rồi từ đấy là bặt
vô âm tín mặc dầu chàng đã nhiều lần nhờ người đi dò hỏi kiếm tìm. Cúi
đầu, chàng bần thần im lặng. Nghe Ðạo Khiêm hỏi, Trãi như sực tỉnh, trầm
ngâm :
- ...Thế là tại hạ ở Mường Một với Hãn và Nguyễn Chích từ
hai năm nay. Nghĩa quân ở cái thế rút thì phải đến cửa Thần Phù ra biển,
vừa khó khăn, lại bất trắc. Vả lại, phất cờ được là chỉ vì chống thuế
má và phu dịch. Chích là một tay hảo hán nhưng tầm nhìn chỉ có đến
Trường Yên. Quá núi Tam Ðiệp, Chích coi như là việc người khác, không
dính dấp đến dân Mường...
Thở dài, Trãi lẩm nhẩm :
- Cái bản
sắc dân tộc chưa đủ mạnh, dẫu rằng trên ba trăm năm trước đã có người
ngâm nga ‘‘ Nam quốâc sơn hà nam đế cư...’’. Rồi bà Chúa lại lỡm - Trãi
cười nhạt - Thế là đi không rồi về cũng không...
- A di dà Phật, bà Chúa nào lỡm ? Bần tăng không hiểu...
Nhìn nét mặt Ðạo Khiêm ngơ ngẩn dưới ánh đèn, Trãi bật cười :
- Thầy thứ lỗi, tại hạ lắm khi nói như mê như lẫn. Ở cửa Phật, ai lại dám nói đến ông Hoàng bà Chúa, thật là phạm thượng...
- Không đâu ! Cửa Phật chẳng hẹp hòi đến thế. Thí chủ cứ kể.
Ðạo Khiêm cười mỉm khi nghe xong chuyện bà Chúa Tiên Dung lỡm Trãi, cái
sách lược Tâm công bị đám nghĩa sĩ Lam Sơn bỏ cho bay theo hơi rượu, và
cuộc tái ngộ bất ngờ với Viễn. Lim dim nhìn Trãi, sư rót trà. Nhấp một
ngụm, sư thủng thẳng :
- Năm kia Viễn có ghé chùa thăm bần tăng. Ðược dăm ngày, Viễn nóng ruột đòi đi...
Nhắm mắt, Ðạo Khiêm hồi tưởng lại cánh rừng nằm dưới chân Phá Lũy. Buổi
trưa hôm đó, Trãi ngủ mê mệt. Dựa lưng vào thân cây, Ðạo Khiêm tập
trung thiền tịnh trong khi Viễn bỏ ra bờ con suối nhỏ róc rách đổ về
xuôi. Khi hé mắt nhìn, Khiêm thấy Viễn tay xách xác một con rắn ra bỏ
cạnh Trãi. Ngạc nhiên, Khiêm đứng dậy lẻn người sau một rặng cây. Không
để ý, Viễn ngồi, mắt ngó trừng trừng vào xác rắn. Ngửng lên nhìn mặt
trời đổ lửa, Viễn giơ cao cây gậy, mất kiên nhẫn há miệng thét cho Trãi
choàng dậy. Lúc đó, Viễn thẳng cánh quật vào đầu rắn. Cái ơn cứu mạng
Trãi thật ra là ngụy tạo bởi một thằng bé con. Khiêm rùng mình sởn gai
ốc trong cái nóng hừng hực. Không biết động cơ nào thúc đẩy Viễn, Ðạo
Khiêm niệm kinh Giải Oan rồi lẳng lặng lẩn đi để cho Trãi và Viễn lên
đường.
Về chùa, câu chuyện xưa chìm vào quên lãng cho đến khi, mười
năm sau, người gõ cổng chùa hỏi Ðạo Khiêm lại là Viễn. Nay Viễn đã
trưởng thành chứ không phải cậu bé năm xưa dưới chân ải Phá Lũy. Chân
tay kềnh càng, mắt ốc nhồi, da bắt nắng cháy đen màu đồng mun, râu ria
Viễn lởm chởm nhìn bợm trợn như tướng cướp. Kể lể cảnh sống của mình ở
Nhị Khê những năm qua, Viễn nói về Trãi bị giam lỏng ở Ðông Quan, và rồi
khẩn khoản xin Khiêm giảng cho nghe. Khiêm hỏi ‘‘ Giảng gì ? ’’. Viễn
chìa ra một cuốn sách đã mất bìa, lật đến đoạn ‘‘…Huyệt mộ có ‘‘con long
’’ từ xa chạy đến kết cục, chuyển vần lên xuống, gặp dòng nước sinh ra
‘‘con xà ’’ nhỏ như sợi khói, bỗng nổi lên ‘‘mộc tinh ’’ góc cạnh đầy đủ
giữ gìn chân khí, bên tả lại có ngôi ‘‘ thể tinh ’’, trước có án, dưới
án là một giải ‘‘sà chim ’’, chạy đến nơi ‘‘long hổ ’’ bày ra, khe nhỏ
bọc lại, tả che hữu đỡ nhìn thì là quả ấn, cây gươm, cái mũ, quản bút
đúng là ‘‘quý cách ’’, không thể sai được... ’’. Ðợi cho Khiêm đọc xong,
Viễn thưa ‘‘ Bạch thầy, đằng sau huyệt mộ là một rặng đề. Rặng đề này
bị trốc gốc. Nước khe dưới chân cũng bị lấp. Thế nghĩa là thế nào ? ’’.
Lắc đầu, Ðạo Khiêm chậm rãi ‘‘ Bần tăng đi tu, không để tâm đến những
chuyện này. Thí chủ nhầm người hỏi rồi ! ’’. Năn nỉ mãi, cuối cùng Khiêm
mách ‘‘ Chuyện phong thủy thì phải tìm Vũ Lại. Nhưng ông ta là phương
sĩ, rày đây mai đó. Bần tăng nghe ông ta thỉnh thoảng lại về núi La ở
vùng Nghệ... ’’.
Kể cho Trãi nghe đến đó, Ðạo Khiêm ề à :
-
Thế là hôm sau Viễn lên đường đi ngay. Bần tăng đoán là Viễn ra La Sơn,
rồi bặt tin cho đến nay mới biết Viễn đã vào Lam Sơn tụ nghĩa ...

Trãi bấy giờ mới vỡ lẽ. Số là hôm sau bữa cỗ ở Lam Sơn, Hãn hỏi Viễn ‘‘
Sao chú không tìm ta mà vào đây ? ’’. Viễn đáp ‘‘ Bác đừng giận em. Núi
Lam địa hình địa vật là thế ‘’ Long Ẩn ’’, đất Mường Một của Chích bì
làm sao được ! ’’. Hãn bật cười ‘‘...chú bây giờ lại thêm nghề địa lý à ?
’’. Viễn ậm ừ ‘‘ ...thì em nghe người ta bảo thế ! ’’. Lảng chuyện,
Viễn khoe ‘‘ hai năm rồi, em lại đẻ thêm hai đứa nữa. Con trai cả, thêm
binh cho bác Hãn đấy... ’’.
Lý Tử Cấu là người độc nhất đi lại với
Ðạo Khiêm từ năm bảy năm nay. Người huyện Bình Quang, Tử Cấu đỗ thái học
sinh cùng kỳ với Trãi, được Hồ Quí Ly bổ làm Hữu dục đức để dạy đám
hoàng tôn. Cấu từ chối. Giặc Ngô sang, Hoàng Phúc đặt học viện, nghe
tiếng đi tìm Cấu bổ làm Học quan. Chỉ hôm sau, Cấu đi mất, không để lại
một dấu vết gì. Vào Trường Yên, Cấu mang theo ba thồ sách, ở ẩn một nơi
ngay cả Ðạo Khiêm cũng không biết là đâu. Thỉnh thoảng, vào tuần trăng
tròn, Cấu lại thình lình đến thăm chùa. Câu đầu tiên nói với Ðạo Khiêm
cứ luôn luôn chỉ một câu ‘‘ Ða tạ lão huynh lại cho uống trà Sơn Hầu
’’và xong là Cấu cười vang như tiếng chuông ngân.
Mỗi lần Cấu đến,
Ðạo Khiêm sai đám tiểu đi hớt sương mai đọng trên đám hoa súng nằm giạt
bên bờ sông. Còn trà, tình cờ một buổi Khiêm gặp một lũ vượn chí chóe
tranh nhau những búp non, nhai rồi nhổ, nhưng sau một lát thì nằm lăn
quay ra ngủ đến độ chẳng còn biết trời trăng gì. Ðến gần, Khiêm mới biết
đó là những cây trà mọc trong rừng. Sai tiểu nhặt bã trà đem về sấy cho
khô, Khiêm uống thử. Hương trà tuy nồng, nhưng uống thì chỉ còn ngây
ngất. Khiêm sai ướp với hoa bạch lan mọc một rặng sau chùa, vị trà thanh
hẳn. Rồi từ khi Tử Cấu đi lại thì chỉ pha với sương mai theo cái cách
cầu kỳ của vị khách quái lạ này. Cấu đặt tên cho trà là Sơn Hầu trà, lại
đùa cợt bảo Khiêm ‘‘ ...khỉ đi tu, uống trà thế này cũng sẽ đạt chánh
quả nữa là lão huynh ! ’’.
Lần trăng tròn tháng này, Cấu đến, ngạc
nhiên thấy Trãi. Buổi tối hôm đó, ba người ra ngồi trên vạt đá nhô ra
khỏi núi vào cuối giờ Tuất. Vào mùa nồng, nước sông Mã bốc hơi khiến
trăng nhô lên nhìn to như cái nia thóc, màu vàng lợ, lừng lững nhích
khỏi chân mây. Trong tiếng gió rì rầm, thỉnh thoảng chim bay ngang kêu
quang quác. Rồi tiếng vượn hú, tiếng sói tru phá đi tịch mịch, khiến núi
rừng chập chùng thêm huyền bí, thêm đe dọa. Khiến con người thêm mỏng
mảnh, yếu đuối và bơ vơ giữa thế gian đang chuyển từ sắc xám mờ sang màu
đêm thăm thẳm.
Trãi buột miệng ngâm nga :
‘‘ Thân ngoại phù danh yên các quýnh
Mộng trung hoa điểu cổ sơn u. ’’
nghĩa là:
Danh hờ thân tạm như sương khói
Mộng hoa núi cũ tiếng chim kêu.
Ðạo Khiêm nhếch miệng, từ tốn :
- Ðã phù trần, ắt phù danh thôi ! Tiếng chim kia kêu nghe được đấy mà
là hư âm. Ánh trăng kia thấy được đấy thế rồi cũng thành hư ảnh. Nhị vị
nhìn mà xem...
Theo ngón tay Ðạo Khiêm trỏ, trăng nhô dần trên bầu
trời, thu nhỏ dần, hóa ra một quả cầu đỏ lòm. Ðến độ cao không còn hơi
nước, trăng xanh mướt, trở lại kích thước mắt người vẫn thấy, dịu dàng
buông trên vạn vật thứ ánh sáng huyền ảo ma quái. Trãi cố nén tiếng thở
dài, đăm chiêu hớp từng ngụm trà.
Nhìn theo ngón tay Ðạo Khiêm, Tử Cấu hắng tiếng, rồi lại đùa :
- Kẻ này người trần mắt thịt nhìn chỉ thấy ngón tay trỏ của cao tăng chứ có trăng đâu !
Ðạo Khiêm co tay lại miệng hỏi :
- Thế ngón tay đâu rồi ?
- Thì hạ tay xuống, nó không có đó, nhưng nó vẫn còn đấy. Cái hư ảnh thật ra có thì chỉ có ở trong đầu ta...
Lý Tử Cấu bất chợt cười, rồi tiếp :
- ...như thế, tất cả qui về cái ta. Nó có, nó ở đấy. Không có nó, ai nói được hai chữ có - không ?
- Ðược, cứ cho là thế đi ! Nhưng cái ta ở đâu mà ra ? Dẫu nó có đấy, cái từ đâu nó có mới là câu đáng hỏi.
Trãi đặt chén trà xuống, nhẹ nhàng :
- Nhưng hỏi, rồi bảo nó từ tình cờ trùng trùng duyên khởi, thưa thầy, có phải thực là câu trả lời không ?
- Từ duyên khởi, cái ta đặt mình vào qui luật nhân quả là từ đó không
còn dấu vết tình cờ ban đầu. Ðể rồi ngộ ra hạnh phúc như cứu cánh của
mỗi kiếp nhân sinh. Ðạt được nó, Phật dạy, phải dứt nghiệp quả. Dứt
nghiệp, cần buông bỏ được cái ta. Muốn vậy, diệt đi hỉ - nổ - ái - ố,
khai mở lòng từ - bi - hỉ - xả. Nếu đạt cứu cánh, thì cái ta là từ trùng
trùng duyên khởi hay không liệu có quan trọng gì ?
Trãi nhẹ nhàng :
- Trong cõi người ta, có ai chỉ riêng có mình mà đạt được hạnh phúc ?
- Tất cả ! Rồi ai cũng đạt được, nhưng sớm muộn tùy người, không phải một sớm một chiều...
- Bạch thầy, xã hội đảo điên vì cương thường nghiêng ngả. Trong bầy
đàn, con thú dữ hiếp con thú lành, vốn là từ tự nhiên. Giữa chốn nhân
vi, khác được là bởi con người biết cùng nhau theo Ðạo thánh hiền. Ðạo
lấy hai chữ nhân nghĩa làm mẫu mực cho con người sống với nhau vì chẳng
một ai sống riêng lẻ được cả. Cái cứu cánh hạnh phúc kia có ai riêng chỉ
mình mà đạt được !
Trãi thiết tha nói, mắt long lanh sáng dưới ánh
trăng đang lu dần đi. Mây che. Nhưng lại gió. Trăng lại ló ra tươi tắn
như vừa tắm gội. Ðạo Khiêm chậm rãi :
- Lành thay! Trăng còn đó. Mỉm cười nhìn Tử Cấu, Khiêm dí dỏm - ngón tay bần tăng cũng còn.
Lại chỉ tay lên trăng, Khiêm vui miệng :
- Thế là nhìn trăng thấy ngón tay, nhìn ngón tay là thấy trăng. Nhân
nghĩa Ðạo thánh hay Từ bi Ðạo phật thì cũng vậy. Quay sang Trãi, Khiêm
ôn tồn - Mừng cho thí chủ đã đại thành với sách Tâm công. Bần tăng chỉ
xin với thí chủ đôi điều...
Trãi nhìn Khiêm, khẽ cúi đầu. Khiêm thì thào :
- Là chín bực phù đồ không bằng một mạng sống… Và ánh trăng đêm nay !
Ðúng như vậy, Trãi không bao giờ quên được đêm trăng hôm ấy. Ðó là thảm
kịch lớn nhất đời Trãi, lớn hơn cả những người đời sau gọi là vụ án
Vườn Vải. Oái oăm và bất ngờ thay, đó cũng là bước ngoăït không đảo
ngược lại được của một thời sử sách lưu truyền.
Không rõ đầu đuôi lời Ðạo Khiêm, buổi tối hôm ấy Lý Tử Cấu tò mò hỏi :
- Sách Tâm công là gì ?
Trãi kể, rồi lan man nói đến chuyện đám võ biền Lam Sơn giễu cợt. Thương hại Trãi, Ðạo Khiêm an ủi :
- Thí chủ nhớ cho rằng ở miệt núi đất Thanh Hóa, người ‘‘ trại ’’ là
dân Mường. Sống quây quần với nhau thành sách, thành động... họ đâu đã
có dịp dùi mài kinh sử để thấu hiểu lẽ thế thời. Vì vậy phản ứng của họ
vẫn là phản ứng thuần bản năng. Khi họ còn yếu, nếu sách Tâm công tránh
cho họ tiêu vong đổ máu, họ sẽ theo nhưng theo không phải vì tin mà vì
để tồn tại. Nhưng họ mạnh, a di đà Phật, thì chính họ sẽ làm máu đổ. Lúc
đó, Tâm công mới là lúc cần cho chúng sinh trong bể khổ.
Tử Cấu bỗng phá lên cười. Nhìn Trãi đăm chiêu khổ sở, Cấu hồn nhiên :
- Ðệ chịu huynh. Chứ đệ thì mất một cái lông chân mà có lợi cho thiên
hạ đệ cũng không làm. Ngược lại, đệ cũng không đi lấy một cái lông chân
nào của ai... Huynh chắc rõ rằng ‘‘ hậu kỳ thân nhi thân tiền, ngoại kỳ
thân nhi thân tồn ’’? Ðặt mình ra sau, hóa ra mình lên trước. Kéo mình
ra ngoài thì thân mình mới còn.
Trãi chép miệng :
- Theo đòi
Lão - Trang ‘‘ đốt mình làm đuốc để chỉ soi cho chính mình ’’, rồi bảo
‘‘ hòa kỳ quang, đồng kỳ trần ’’, cho đến ‘‘ vong tình, lạc tính ’’thì
đệ cũng đã được đọc được nghe... Nhưng vừa hòa với ánh sáng lại vừa đồng
với bụi bậm thì đệ chưa thấy. Vứt tình đi mà vẫn thú vẫn vui, đệ không
tin...
- Ðệ xưa cũng như huynh, ta cùng là đám đệ tử Danh gia mà ra
cả. Cương thường là cách xếp đặt xã hội trong đó con người ở tư thế soi
vào nhau để tìm lấy mình. Ðó là con người tự thân không tìm được bản
ngã, tất rồi chỉ vong thân. Và vong thân vì chính cái xã hội bầy đàn họ
tạo ra... Nói thật, đệ cũng đã quằn quại như huynh cho đến khi gặp được
một cơ duyên kéo đệ ra khỏi cõi mù mờ của trí tuệ. Từ đó - Tử Cấu nhìn
Ðạo Khiêm - đệ gần gũi với Phật gia về lý giải thân phận và hạnh phúc
của con người. Và rồi tìm kiếm cứu cánh của nhân sinh. Vì thế, đệ bàng
quang với đại sự , những nào là giặc là ta, nào là đánh là hòa, là thắng
là bại...
Ðạo Khiêm niệm a di đà rồi chậm rãi :
- Lý thí chủ
có thể kể cho bần đạo nghe về cái cơ duyên đó không ? Chữ duyên trong
kinh Phật vẫn cứ là huyền cơ trong cõi ta bà này...
Hồi tưởng mùa
đông năm ấy bên bờ sông Cầu, Tử Cấu nhấp giọng rồi chậm rãi kể. Ngồi đợi
đò, Cấu bỗng nghe tiếng hát văng vẳng, giọng bay tít lên cao rồi dội
lại trong gió chiều lành lạnh. Vạch lau lách, Cấu dò theo tiếng hát lúc
có lúc không, lúc hư lúc thực, lúc còn lúc mất. Ðến lúc nhà đò gọi, Cấu
mới quay về bến, hỏi :
- Ai hát đó ?
Nhà đò sằng sặc cười :
- À, mụ điên ! Con mụ đến bến này nửa tháng, nay không biết chui rúc
sống ra sao mà thỉnh thoảng lại cất tiếng hát, nhưng chưa ai thấy mặt
mũi thế nào !
Ngồi đò, đến giữa dòng, tiếng hát lại cất lên. Lần
này, Cấu nghe loáng thoáng được vài thanh âm. Lên bến, Cấu ngần ngừ rồi
bảo nhà đò chở mình ngược lại. Tiếng hát khi đó cất lên nghe đã thành
câu. Lại mò mẫm, Cấu đi dần tới. Tiếng hát run lên trong không gian đục
ẩm :
‘‘ Bui một tấc lòng, ai người biết
Chèo quơ nước ngược, chuyến đò ngang ’’
nghe tức tưởi lời than khóc một định mệnh oái oăm. Trước mắt Cấu, người
đàn bà đó bụng mang dạ chửa, hai tay ôm bụng cao vượt ngực. Mắt ngơ
ngác nhìn ra bờ lau gió dạt, người đàn bà lập cập run lên từng chặp. Tóc
xõa bay trong gió, áo quần mỏng manh tơi tả, nàng vẫn đẹp. Ðẹp cái vẻ
đẹp gần gũi với chết chóc nát tan. Như không thấy Cấu, nàng ngửng mặt
bất chợt cười khanh khách, miệng lập đi lập lại, ‘‘…đã bảo mà, đã bảo mà
!’’. Nàng bất chợt lại ôm mặt tức tưởi, hồn trí phiêu bạt đâu đâu, thể
phách dập dờ trôi ngang một chuyến đò nước ngược.
Lấy tấm áo kép
đắp lên vai cho nàng, Cấu im lặng ngồi nhìn sông nước. Vẫn không biết có
Cấu ở bên, nàng lại lẩm nhẩm hát rồi cười vu vơ. Bất ngờ, nàng thì thào
:
- Chàng ơi ! Ðiều kỳ diệu của sự sống là trong từng cái nhỏ nhoi !
Thình lình, nàng rống lên khóc. Tay vả vào mặt mình, miệng tiếng còn tiếng mất, nàng thét :
- Ðừng lo đời thiếu mình để kết cục mình thiếu tất cả...
Cứ thế, nàng la thét cho đến xẩm tối thì kiệt lực ngất đi. Ðêm hôm ấy,
Cấu bẻ cành khô vun vào châm lửa, lấy lương khô ra chia cho nàng khi
nàng hồi lại. Không ăn, nàng nằm cạnh đống lửa, mắt lạc đi nhìn bầu trời
đầy sao, thỉnh thoảng reo ‘‘ Sao băng, sao băng ’’ rồi chốc chốc lại
hát lại cũng đúng một câu hát có nước ngược và chuyến đò ngang...Trong
bóng đêm, không ai nhìn thấy mặt Trãi căng ra. Môi mím chặt, chàng cắn
răng kìm xúc động, tay bừng bựt run lên từng chặp. Sao băng, sao
băng…Chàng ngửng lên, hàng chùm sao nhạt nhòa từ thinh không chụp xuống
thế gian dưới này, cõi thế gian nổi trôi bất hạnh…

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Quyền hạn của bạn:

Bạn không có quyền trả lời bài viết
Chia sẻ
Share

_____