cộng đồng pro forum chia sẻ
sân chơi teen - wed mới của admin - anh em vào phát triển


http://sanchoiteen.info
cộng đồng pro forum chia sẻ
sân chơi teen - wed mới của admin - anh em vào phát triển


http://sanchoiteen.info

Đừng nghĩ rằng bạn đang cô đơn bởi vì có ai đó đang sẵn sàng giơ tay cho bạn nắm. Hãy cùng chia sẻ để vơi đi nỗi buồn và tận hưởng trọn vẹn niềm vui trong cuộc sống này bạn nhé!



mọi ngườ đăng kí thành viên đi

số bài gửi vào diễn đàn số bài gửi vào diễn đàn :
325
:
ngày tham gia diễn đàn ngày tham gia diễn đàn :
10/04/2012
:
sở thick riêng sở thick riêng :
làm forum
:
LỜI MUỐN NÓI LỜI MUỐN NÓI :
thấy diễn đàn hay -thì đăng kí thành viên cùng phát triển nhé
thân : admin_hà
:
admin_hà
admin_hà

admin_hà
Admin

  • Admin
- Ông thảo chiếu vời Tướng quốc cho ta.
Hoan gập đầu vâng mệnh.
Liền sau đó Lợi phao là mình bệnh nặng, sai Bình Chương sự Lê Vấn, Ðại
tư mã Lê Ngân và thiếu phó Lê Văn Linh mang kim sách lập Tư Tề làm Quốc
Vương. Ðồng thời, Lợi sai Tư khấu Lê Sát, Tư không Lưu Nhân Chú, Tư mã
Lê Lý, Thiếu úy Lê Quốc Hưng mang kim sách lập Nguyên Long làm Hoàng
thái tử. Dẫu đều là quốc thích, bọn đại thần như vậy chia thành hai phe
cầm chân lẫn nhau. Lợi lại xuống chiếu cấp đất cho đám võ quan, cắt tinh
binh Thiết Ðột thành năm đạo, một đạo bảo vệ Lợi gọi là Ngự tiền Thiết
Ðột, còn lại chia ra kiểm soát kinh thành và vùng phụ cận Ðông Quan. Khi
vấn đề an ninh tạm ổn, Lợi bất ngờ ra lệnh tập diễn thủy bộ cho toàn
quân. Lệnh ra ngày hai mươi mốt tháng hai, đến ngày hai mươi bảy thì
phải tập hợp, ai vắng mặt sẽ bị tội. Ðầu tháng ba, Lợi chia mỗi vệ quân
làm năm phiên, một ở lại, bốn cho về làm ruộng.
Nội Mật viện báo
với Vua làm sao không biết, chính sử chép rằng dẫu đã cho gọi về kinh
nhưng một số quân tướng lại bất tuân quân lệnh. Ngoài ra, chẳng biết thế
nào mà Nội Mật viện hạ ngục gần một trăm người, phần lớn là những võ
tướng đã vây đánh thành Cổ Ðộng, Chí Linh và nhất là thành Xương Giang.
Chia tay Lê Lợi, Trần Nguyên Hãn rập đầu :
- Tâu hoàng thượng, chuyến này thần mang được Bế Khắc Thiệu về với
triều đình thì chỉ xin một điều. Ðó là chuyện thần đã bẩm năm ngoái,
rằng xưa thần rong ruổi chiến trận đã nhiều, nay có tuổi nên thần mỏi
mệt, thần chỉ mong được về điền viên vui cảnh già, hoàng thượng chuẩn y
thì thần đội lượng vô cùng...
Lợi vội đỡ Hãn lên, nắm tay ôn tồn :
- Khanh là đệ nhất công thần, là rường cột xã tắc. Xưa hoạn nạn chia,
bây giờ là lúc phúc cùng hưởng. Cũng vì biết khanh đã khó nhọc mà nay
cậy đến khanh vào trấn Thái Nguyên, lòng ta cũng không yên. Cứ đi đi,
rồi lúc về, ta sẽ bàn sau...
Nói xong, Lợi rút viên hồng ngọc trên đai áo, đưa vào tay Hãn, giọng run run :
- Khanh cầm lấy, như lúc nào cũng có ta ở bên khanh. Chưa bình định
được mọi miền, thu dân về một mối là lòng ta không yên. Xưa, thời chiếân
dùng sách Tâm công. Nay, thời bình không lẽ ta lại đi dụng lực. Họ Bế
về hàng là để cùng chia ân phúc thái hòa, khanh cứ thế mà nói cho tỏ
tường...
Hãn lạy tạ rồi lên đường. Mang theo sáu tên gia đinh. Hãn
ruổi ngựa hai ngày sau thì vào địa phận dưới quyền cai quản của họ Bế.
Vốn đã xuôi ngược giả dạng đi bán dầu để tụ tập nghĩa quân thời kháng
Minh trước khi về với Nguyễn Chích, Hãn và Thiệu biết nhau từ lâu. Mấy
năm gần đây, Hãn lại là người chỉ huy mặt trận chặn đường quân Minh đến
từ Lưỡng Quảng nên đôi lần gặp gỡ Thiệu. Biết dùng tình mà nói thì sớm
muộn Thiệu cũng mềm lòng bỏ cái chí một mình giữ một cõi, Hãn đưa viên
hồng ngọc của Lợi làm quà. Bỏ hết mũ áo, Hãn ngồi xếp bằng trên sàn lán,
uống rượu suốt một ngày với Thiệu. Hôm sau, Hãn khề khàbảo :
- Về với ta đi !
Thiệu lắc :
- Về thế nào được. Mình người Mường, nó khác mình khác...
- Mình Mường Việt, Mường Lễ. Nó Mường Một, Mường Thôi. Cũng Mường cả... có khác gì đâu !
- Khác chứ ! Mình thật, nó gian. Mình ngay, nó cong. Mình tay làm hàm
nhai. Nó nhác việc, lại bắt mình sưu thuế. Thôi uống đi, rượu ngon, thịt
béo trước. Nói thì nói sau.
Cứ thế, Hãn nói rồi lại rượu. Ðến
chiều ngày thứ ba, Thiệu nghe chừng đã xuôi tai nhưng bất chợt có báo là
quân triều đình tới xin được diện kiến Hãn. Hãn bước xuống lán thì Lê
Quốc Khí và độ hai mươi dũng sĩ Thiết Ðột vẫn còn ngồi trên mình ngựa.
Thấy Hãn, cả bọn xuống ngựa gập người chào. Khí bước đến cạnh Hãn thì
thào :
- Bẩm quan Tướng quốc, có chính biến. Hoàng thượng vời ngài về ngay...
- Chính biến ? Chuyện thế nào ? Hãn gặng - Nay hoàng thượng đâu ?
- Hoàng thượng đã xa giá về dinh Bồ Ðề... Còn cơ sự thế nào thì hạ quan không tường tận hết...
Hãn nhảy vội lên lán kiếm Bế Khắc Thiệu rồi vội vàng cùng bọn gia đinh
lên ngựa theo Khí và bọn dũng sĩ. Ðám người ngựa len lỏi trong rừng đến
tối thì bật hồng đốt đuốc tiếp tục đi. Nhìn Khí, Hãn đột ngột hỏi :
- Khi tướng quân rời kinh, tình hình thế nào ?
- Bẩm thượng quan, binh lính đầy đường kéo nhau đi về phía bờ bắc sông Nhị...
Trong đầu, Hãn điểm qua đám võ tướng hiện còn trực tiếp nắm binh quyền.
Bọn Sát, Vấn, Ngân đều là họ hàng ruột thịt với Lợi, chắc là không phản
trắc. Còn lại có Trịnh Khả, Ðinh Liệt và Nguyễn Xí. Liệt là em Ðinh Lễ,
được phong làm Nhập nội thiếu úy, tước Á hầu, và chẳng có cái gan bạo
động. Xí mắc tật mạnh miệng, nhưng lại như con chồn trước cái oai phong
hổ báo của Lợi. Còn Khả. Tháng hai năm ngoái, Lợi có thưởng công cho đám
người hội thề ở Lũng Nhai và tinh binh Thiết Ðột, tất cả là hai trăm
năm mươi sáu người. Là nhân vật hàng thứ ba trong cuộc hội thề, Khả bị
đánh tuột xuống lớp chín mươi bốn người có công hạng ba, được ban tước
Trí Tự và chức Câu kiềm Vệ tướng quân. Thỉnh thoảng, Khả ấm ức nhắc công
mình chiếm thành Tam Giang, sau lại cùng Phạm Văn Xảo đánh tan đám quân
nhà Minh do Mộc Thạnh đem từ Vân Nam vào ải Liên Hoa. Thế thì, Hãn
nghĩ, chắc là Khả.
Vào lúc tờ mờ sáng, đám người ngựa đến ven sông
Lô. Khói sông trên mặt nước bốc thành một tấm màn trắng đục chập chờ
trong gió sớm. Hãn hỏi Khí :
- Tướng quân có sắp xếp thuyền đò rồi chứ ?
Nghiêng người trên mình ngựa, Khí thình lình thét :
- Xuất thủ !
Tiếng gươm rút ra khỏi vỏ, rồi tiếng chém xoèn xoẹt lẫn vào tiếng la
thét oai oái vang lên choáng tai. Hãn ngẩn người. Sáu tên gia đinh theo
Hãn, đứa cụt đầu, đứa lòi ruột ngã từ mình ngựa nằm ngổn ngang trên mặt
đất. Sờ vào ngang lưng, Hãn mới nhớ từ lâu nay mình không còn đeo kiếm.
Vả lại, bây giờ cũng vô ích. Bọn dũng sĩ Thiết đột vây quanh Hãn, tay
kiếm tay nỏ, lẳng lặng nhìn vị Tả Tướng quốc nay thất thần, mặt nhợt
nhạt. Hít một hơi thật sâu, Hãn nhìn Khí quát :
- Thế ra chính biến là cái mạng ta à ? Ai ra lệnh cho mi ?
Khí cắn răng, lạnh lùng :
- Tội khi quân ! Hoàng thượng cho Tướng quốc chết toàn thân.
Nói xong, Khí chìa cho Hãn một cái bình sứ đựng thuốc độc. Hãn cười ha
hả, miệng kêu ‘‘ đa tạ, đa tạ ! ’’ , tay thò ra nhưng bất ngờ lạng người
kéo Khí ngã xuống ngựa. Kẹp lấy yết hầu Khí, Hãn xoay lưng về phía bờ
sông, dùng Khí như lá chắn. Bọn dũng sĩ Thiết Ðột thấy chủ tướng bị kiềm
chế, chỉ hò hét nhưng không dám làm gì. Hãn lại cười sằng sặc. Nhìn Khí
mặt cắt không còn hột máu đang khò khè thở, Hãn rành rọt :
- Hôn
quân vô đạo, bức tử công thần. Mi chỉ là tay sai, ta tha mạng cho nhưng
về tâu với nó hộ ta là trị quốc bằng Nội Mật viện thì cả nước thành cái
nhà tù khổng lồ. Chỉ có cai ngục và tù nhân mà không có dân thì đi về
đâu...
Ngẫm nghĩ, Hãn tiếp, giọng bùi ngùi :
- Quân Minh vừa
kéo đi, hôn quân giết ngay Quốc vương Trần Cảo, thì ta, giòng giõi nhà
Trần, ta đã biết phận ta, nào có muốn nấn ná gì chốn cung đình. Thế mà
nó không tha, giở thủ đoạn lừa lọc...
Hãn vung tay ném bình thuốc độc xuống nước, bật miệng :
- ...nhân nghĩa với nó là ban cho thuốc độc, ha ha. Nhưng ta không cần đến mà vẫn chết được một mình.
Ngửng mặt lên trời, Hãn than :
- Hỡi hoàng thiên, đất thấp thì trời phải nhìn xa, lẽ nào để nó thế thiên mà lộng hành đến thế...
Nói xong, Hãn đẩy Khí ngã xấp mặt xuống đất. Lừng lững bước vào mặt
nước mù khói, Hãn chìm dần, họng sặc nước nhưng vẫn ghìm chống cái bản
năng sống còn cứ chực đẩy cho bật dậy. Bọt nước lục bục từng chập nổi
lên, rồi thưa dần, và cuối cùng chỉ còn lăn tăn vô ảnh.
Hé mắt nhìn
lên những vệt sáng len qua chấn song, Trãi bấm đốt ngón tay đếm những
ngày vừa qua. Từ rạng sáng hôm hai mươi sáu, Nội Mật viện cho sai nha
mời Trãi lên làm việc. Trãi hỏi việc gì. Không ai đáp. Trãi lại bảo
‘‘...đại thần thì có chỉ vua gọi mới đi thôi ! ’’. Sai nha về nhưng vào
giữa trưa Trịnh Hoành Bá đích thân đến nơi Trãi cư ngụ. Hắn sách mé
‘‘...quan Thượng Thư thanh bần nhỉ, vàng bạc giấu đâu cả rồi ? ’’. Không
thèm nghe Trãi đáp, hắn hất tay ra lệnh. Bọn Thiết Ðột áp lại không nói
không rằng trói gô Trãi mang hạ ngục. Trãi đòi gặp Lê Lợi. Nội Mật viện
cho người bảo Ðức Hoàng Thượng đã xa giá ra dinh Bồ Ðề rồi. Cứ thế, đến
ngày thứ bảy thì Trãi tuyệt thực. Tên cai tù bắt đầu chỉ cười khẩy. Ðến
ngày thứ hai, nó chửi Trãi ngu. Trãi bật cười, mình ngu thật. Chống đói
là điều không dễ như chàng tưởng. Bụng có lúc xót như cào, rồi quặn
thắt lại. Nước bọt tự động ứa ra, nhắm mắt là thấy cơm, thấy cá. Thấy
những món ăn thuở bé thèm thuồng. Như một trái ổi xanh. Một quả me chín.
Một trái hồng đào. Một bát canh mướp nấu với tôm khô. Cái khổ nhất, là
đến bữa, cai tù lại đẩy khay cơm vào. Nhìn mà không ăn, quả là một cực
hình. Oái oăm thay, trong đời có lúc miếng ăn là miếng nhục.
Trước
cái cám dỗ của khay cơm, Trãi quay người nhìn vào tường. Ngày sau, Trải
nhìn thấy một con dán. Bé bằng đầu ngón tay, nó vểnh hai sợi râu lên,
mon men bò về phía khay cơm. Sợ hơi người nên vẫn rụt dè e ngại, nó chạy
lên rồi lại dừng lại, nép vào khe vách nằm im giả chết. Tìm miếng ăn để
cầu sống dẫu tự nhiên nhưng quả không phải chẳng hiểm nguy, Trải chua
chát nghĩ. Chàng đẩy khay cơm ra xa. Con dán cánh đen mầu gụ lân la rồi
cuối cùng bò hẳn vào cái khay, lấy chân khều những hạt cơm trộn mắm. Ðến
ngày thứ hai, nó quen dần, nay thủng thỉnh đến ăn bữa cơm tù, vểnh râu
nhìn Trải chẳng chút sợ hãi.
Cái gông trên vai mới nặng làm sao. Nó
nghiến vào vai Trãi, ấn chàng vào cái thế dở nằm dở ngồi. A, diệân bích
là một cách tu. Nhưng biết thế nào là đạt đạo đây. Con đường tu này oái
oăm thật. Thuở còn giặc Minh, chàng tránh né nên dẫu chi cũng không
phải nằm trong đề lao sống đời tù ngục. Thuở đánh giặc Minh, dù có bị
vây hãm, nhưng chàng vẫn giữ được cái tự do ngắm trời ngắm đất mơ chuyện
vẫy vùng. Nay, thuở đuổi xong giặc Minh thì Trãi đây, Lại Bộ Thượng Thư
triều Lê Thái Tổ nước Ðại Việt, bị ném vào giữa bốn bức tường đánh bạn
với một con dán, cổ đeo cái gông gỗ lim gài then nặng trĩu cứ chực đẩy
cho ngã chúi mặt xuống đất đen.
Chống đói được đến ngày thứ tư thì
thể xác không còn hành hạ như trước nhưng trí óc lại trôi vào một chốn
mập mờ hư thực. Ðúng lúc đó, Trịnh Hoành Bá xuất hiện. Hắn sai cởi gông
cho Trãi, đưa vào một mâm có canh gà cá gỏi, ngọt ngào :
- Ông phải ăn đi một tí, cứù thế này thì chết mất...
Trãi im lặng, thản nhiên nhìn lên trần.
- Hoàng thượng lệnh cho tôi đến phiền ông, hỏi về cái sách cát cứ của Bế Khắc Thiệu ở trấn Thái Nguyên, hư thực thế nào...
Trãi vẫn im lặng.
- Và chẳng hiểu Tả Tướng quốc có biết ý đồ của Thiệu không ? Xưa nay, chỉ mình ông ấy là có đi lại với Thiệu...
Trãi bỗng chột dạ. Chuyện gì đã xảy ra ngoài kia ? Phải chăng Hãn đã
manh động dấy quân ? Không, không thể thế. Hãn thừa biết mệnh trời với
nhà Trần đã dứt từ thời Trùng Quang. Ngay khi Lợi giết Trần Cảo, Hãn
cũng chẳng nói gì. Ðẩy mâm cơm sang một bên, Trãi thều thào :
- Ông trình với Hoàng Thượng, tôi biết. Biết nhiều chuyện nhưng chỉ có thể tâu thẳng với ngài...
Không cậy được miệng Trãi, Hoành Bá bỏ đi, mặt xầm xuống như đeo đá.
Nằm trong bóng đen, Trãi cố tập trung suy nghĩ nhưng tâm trí cứ như
những mảng lục bình rời ra trôi giữa một dòng sông bập bềnh. Chống tay
ngồi dậy, Trãi dựa lưng vào tường, cố mở mắt. Trong khoảng sáng tờ mờ
hắt qua khe cửa ngục, ai đó ngồi nhìn Trãi. Chàng nhướng mắt lên, sửng
sốt kêu :
- Huynh đó à ?
Hãn mặt bủng, da trắng bệnh, quần áo sũng nước khẽ gật đầu. Trãi vội vã :
- Sao huynh lại thế này !
Hình ảnh Hãn nhợt nhạt dần. Trãi nghe văng vẳng :
- Chuyện ‘‘ Phá cường địch, công thần vong ’’ dẫu có biết, tránh cũng
không xong. Lưu Nhân Chú hôm qua bị chúng nó đâm lòi ruột...
- Chúng nó là ai ?
- ...Nguyễn Chích cũng bị hạ ngục. Ta đã xin vào xem sổ Thiên Tào. Chưa có tên chú. Chưa có tên Chích !
Bên tai Trãi, lại tiếng cười ha hả quen thuộc của Hãn vang lên rồi xa
đi mơ hồ thành tiếng muỗi vo ve. Trong đầu Trãi, mọi việc bỗng trở nên
trong suốt. Họ Bế trấn chiếm Thái Nguyên cả hai đời nay, quân Minh xưa
có đánh cũng không bình định được. Lưu Nhân Chú là người Thái Nguyên, kẻ
tìm cách mang quân của Bế về hợp với nghĩa quân Lam Sơn từ ngày Lê Lợi
xưng là Bình Ðịnh Vương, nhưng chuyện không thành. Còn Nguyễn Chích,
thân cận với Hãn, công chiếm hai châu Hoan, Ái và vây thành Nghệ An tạo
ra thế bàn đạp đưa đường cho nghĩa quân tiến về Ðông Ðô. Và chàng, nay
cũng tù ngục. Tiếng thở dài của Hãn dưới chân thành Xương Giang năm nọ
lại mơ hồ cất lên dài ra hun hút.
Hai hôm sau, bọn văn quan Nguyễn
Thiên Tích và Bùi Ư Ðài vào ngục. Tích là người Trãi đã tiến cử vào làm
Ngôn quan. Ðài nay là Ngự sử. Tích nhìn Trãi thoi thóp, buột miệng nói
lớn :
- Nỗi oan này, đúng là trời không có mắt...
Trãi thều thào :
- Không phải trời, mà là người...
Bùi Ư Ðài hỏi :
- Quan Lại bộ Thượng Thư, bây giời ngài định thế nào ?
Trãi chua chát :
- Tên tù Nguyễn Trãi này còn định được gì. Hãn chết rồi. Lưu Nhân Chú cũng vậy...
Ðài ngạc nhiên :
- Sao ngài biết ?
- Hãn báo mộng... Tả Tướng quốc, chắc là chết oan, có nhắn Hoàng Thượng...
- Nhắn gì...
Trãi mượn người chết nói thay mình :
- Nhắn rằng chẳng việc gì mà Hoàng Thượng phải sợ đến nỗi đi giết công
thần, trái cái ước là họa cùng chia phúc cùng hưởng. Hãy thả Chích...
Thiên Tích chép lời Trãi, rồi hỏi :
- Còn gì nữa...
- Ðuổi giặc là lấy được Thiên mệnh. Từ cổ kim, một triều đại mới thường
ít là trị vì được ba đời. Nhưng nếu dùng nhân, để đức thì có thể kéo
dài đến sáu, bảy đời trong độ hai trăm năm. Ðó là qui luật. Sợ mà thất
đức nổi cuồng thì tự dấy vạ...
Bùi Ư Ðài nhỏ nhẹ :
- Nhưng đó là lời Hãn. Còn ngài ?
Nguyễn Trãi quay mặt vào tường, yếu ớt đáp :
- Còn Trãi... Ta thật có còn không ? Ðiều đó có quan hệ gì ? Cái đạo
quân - thần mới thực sự là điều cần gìn giữ... Ngoài ra, thì rồi sinh
rồi tử. Quân cũng vậy, mà thần cũng thế. Nhưng cái đạo quân - thần thì
phải để truyền đời...
Nói đến đấy, Trãi lịm người đi, mắt nhắm lại.
Trăng lưỡi liềm lơ lửng treo đầu trên đỉnh tháp Báo Thiên thoắt một cái
đã biến sau lớp mây vun vút bay ngang. Mây lòe lên như trạm bạc, lát
sau thẫm lại rồi biến vào bầu trời đen kịt. Tiếng quạ đâu đây quang
quác. Chẳng biết vì sao chúng kéo về hàng đàn, ngày không thấy nhưng đêm
lại chập cánh bay phành phạch suốt canh hai và canh ba.
Cho đốt
bạch lạp để khắp thư phòng, Lợi chống tay lên án. Sau ngày điểm binh và
giải giới quân binh đến bốn phần năm, không một võ tướng nào có đủ lực
lượng chống được năm đạo Thiết Ðột do chính Lợi chỉ huy điều động. Bức
tử Hãn, hạ ngục Nguyễn Chính và Nguyễn Trãi, rồi sau lại để Lê Sát và Lê
Vấn sát hại Lưu Nhân Chú khiến đám đại thần văn võ co quắp run sợ. Với
uy lực đó, Lợi ra lệnh bắt họ nộp lại số kim ngân họ mang tiếng đã lấy ở
Bến Ðông dịp sông Nhị nẩy vàng ròng. Chánh nhất phẩm, nộp hai lạng,
tòng nhất phẩm lạng rưỡi... cho đến tòng ngũ phẩm thì không phải nộp.
Trăm quan răm rắp tuân lệnh, kẻ không có thì phải đi vay đi mượn, chẳng
một ai dám than van.
Sáng nay đám Ngôn quan vào tâu việc Chích và Trãi. Nghe Nguyễn Thiên Tích thuật xong, Lợi đập án :
- Chỉ rặt chuyện quái dị...
Tích rập đầu tâu :
- ...nhưng Trãi nằêm trong ngục, sao biết được cả chuyện Lưu Nhân Chú
chết và Chích bị hạ ngục. Hoàng Thượng xét cho, Trãi nào có nguy hiểm
gì. Cái chuyện lá có đục chữ ‘‘ Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần’’
nay dân gian đều biết, dẫu Trãi có hai lòng thì cũng chẳng ai theo...
Nguyễn Thiện Hựu, là em Tích, cũng quì xuống khẩn cầu ;
- Tâu Hoàng Thượng, Trãi là anh em cô cậu với Hãn thì đâu phải là tội.
Vả lại, gia nhân bạn bè Hãn nay Nội Mật viện đã truy lùng bắt bớ đến
hàng trăm người, tha Trãi sẽ tỏ ra cái đức của đấng Minh quân, cái dũng
của bực Thiên tử. Mặt khác, chuyện thiết lập bộ máy triều chính thì
Hoàng Thượng đã xuống chiếu tháng sáu này sát hạch kinh sử trăm quan,
xét khả năng mà cắt cử. Phi Trãi ra ai là người đủ kinh lịch và kiến
thức để chủ trì việc này. Như thế, tha Trãi là dụng cái trí của đấng bề
trên trông xa mà bỏ gần...
Lợi tần ngần, tay xoa chùm lông trên má,
rồi phẩy tay đuổi bọn Ngôn quan ra ngoài. Ngẫm nghĩ lại, Lợi bỗng rùng
mình. Từ khi phong Tư Tề làm Quốc Vương, ngày nào bụng Lợi cũng ngâm
ngẩm đau, ăn uống gì là chỉ chực nôn ra. Bọn Ngự y bắt mạch, chẩn đoán
rằng Lợi bị bệnh rối ruột vì âu lo, cắt thuốc cho hạ hỏa rồi tẩm bổ sâm
nhung. Nhưng cứ về đêm, chợp mắt lúc nào là Lợi lại nghe văng vẳng tiếng
khóc rấm rứt. Ban đầu, tiếng khóc ở cửa sổ. Ít lâu sau, Lợi nghe tiếng
đập cửa, nhưng đám thị vệ nói không thấy một ai. Gần đây, tiếng khóc rõ
ràng là ngay đầu long sàng. Rồi một đêm, khi Lợi thiếp đi vì mệt thì có
người lay dậy. Mắt nhắm mắt mở, Lợi quát :
- Ai ?
Tiếng trả lời :
- Ngọc Trần đây ! Người nuốt lời ở sông Ác rồi sao ?
Lợi vùng ngồi lên. Ngay dưới chân giường, đúng là Ngọc Trần mặt tái
bệch, tóc dài xõa xuống đến lưng, há miệng lưỡi đỏ lòm sắc máu. Lợi quát
:
- Mi về đây làm gì ?
- Ta về ta nhắc mi cái lời hứa năm xưa
khi mi hiến ta làm vật tế cho thần Phổ Hộ... Tại sao mi phong Tư Tề làm
Quốc Vương và Nguyên Long, con ta, chỉ là Hoàng thái tử ?
Lợi gằn giọng :
- Ta là vua, ta làm gì mà chẳng được...
Ngọc Trần dang tay tát vào mặt Lợi, lưỡi thè dài ra như rắn cuốn lấy cổ Lợi xiết lại.
Lợi vùng vẫy kêu thét lên. Khi đám Ngự y vội chạy vào thì Lợi đã ngã úp
mặt xuống đất. Bắt mạch, đám ngự y ngạc nhiên thấy thân hàn xuống hẳn
và từ đó không dám cắt thuốc hạ hỏa nữa. Bụng Lợi lại tiếp tục đau ngâm
ngẩm, không ăn uống được.
Những đêm sau đó, Lợi bắt mỗi đêm có một
tay Ngự y thức canh chừng ngay trong phòng. Nhưng cứ chợp mắt, Ngọc Trần
lại xuất hiện, hỏi lại đúng một câu, lắm đêm thoát y, thân thể lõa lồ,
tay lấy váy đập vào mặt Lợi. Mỗi lần, Lợi lại la thét cho đến khi Ngự y
lay dậy.
*
Nhận được chỉ mời vào kinh gấp, Nhất Hạnh không
biết chuyện gì, vội vã lên đường. Sư vốn là người thân thích với Lê Lợi,
tu ở chùa Chân Phúc phía bắc Lư Sơn từ khi tóc để chỏm. Ba năm cuối
trước khi nghĩa quân toàn thắng, Lợi giấu Nguyên Long trong chùa. Lúc bị
vây hãm ở núi Chi Linh, con gái lớn của Lợi là Thị Quyên bị Mã Kỳ bắt
cóc đưa về Kim Lăng. Ðể tránh cái cảnh bị tướng nhà Minh tạo áp lực, từ
ngày đó Lợi cho con cái ẩn vào các nơi chùa chiền dân dã.
Khi Lợi
dọn từ dinh Bồ Ðề về điện Vạn Thọ thì mới đưa Nguyên Long về kinh. Lên
bảy, Long vẫn chưa biết đọc. Nhất Hạnh dạy vỡ lòng, giận đến phải đánh
mắng, nhưng Long cứng cổ. Trêu Hạnh, khi viết Long viết ngược. Chỉ ba
chữ Thiên - Ðịa - Nhân mà mất đến hai tháng Long mới viết được đúng có
một lần. Hạnh rút cục chịu thua, mặc cho Long lêu lổng cả ngày đi lùng
cào cào, châu chấu. Phá phách cây cảnh chán, Long lại tìm đủ cách chòng
ghẹo người đi lễ chùa. Rầy la thì Long giả vâng dạ, nhưng thoáng một cái
là đâu vào đấy.
Hạnh vào hoàng cung lúc trời vừa tối. Lê Lợi vẫn ở
điện Cần Chính nhưng dặn hoạn quan Ðinh Hối đưa Hạnh vào thư phòng. Ðến
khuya, Lợi mới tới. Gặp Hạnh, Lợi kể ngay chuyện ăn ngủ không yên, đêm
nào cũng mơ thấy Ngọc Trần. Nhìn khí sắc Lợi, Hạnh phát sợ. Mắt hõm sâu
xuống, lưỡng quyền nhô cao lên, Lợi đôi khi thất thần như ai cướp hồn
bắt vía.
- Bây giờ phải làm sao ? Lợi hỏi
Cúi đầu ngẫm nghĩ, Hạnh đáp :
- Cầu siêu, bẩm Hoàng Thượng. Ðể bần tăng gọi thêm một con đồng xem cái oan hồn kia muốn gì.
- Nhưng phải hạn hẹp, đừng để người ta biết !
- Bẩm Hoàng Thượng, chỉ cần những người trực tiếp liên quan đến việc này, là Tư Tề và Nguyên Long. Thế thôi !
Bốn ngày sau, một đội Thiết Ðột bảo vệ ba cha con Lợi bí mật đi về Hà
Ðông sau bữa cơm chiều. Họ đến điện bà chúa Lừ, nơi sư Nhất Hạnh đã soạn
lễ. Nhìn thấy Lợi, sư gập mình quì gối nhưng Lợi đỡ dậy. Sư nghiêng
người chào Quốc vương và Hoàng thái tử xong, kính cẩn rước ngồi lên một
chiếc sập gụ. Ngay dưới chân sập là hai chiếc chiếu cạp điều, ngồi xung
quanh toàn những nhạc công, tay kèn, tay nhị. Họ không biết là vị chủ tể
của cả nước đến, chỉ nghe Hạnh bảo rằng đây là gia đình một vị phú hộ ở
Sơn Tây mới về kinh.
Cô đồng điện Lừ chạc ba mươi. Ðầu đội một
chiếc khăn đỏ, mặt mũi xanh xao gầy guộc, mắt cô lúc nào cũng lờ đờ như
ngủ gật. Cô lắc lư đầu, thỉnh thoảng nhếch miệng cười, một cái cười lạnh
lẽo vô cảm của người chết chôn rồi đội mồ sống lại. Phủ phục, cô nằm
bất động khi sư Nhất Hạnh thỉnh chuông, cắm những bó nhang lên điện thờ,
thỉnh thoảng niệm to :
- Án Lam sa ha, chí tâm đỉnh lễ, tận hư
không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai, chư Phật, Tôn Pháp, Hiền
Thánh, Tăng thường trụ tam bảo.
Chí tâm thỉnh lễã, Sa bà giáo chủ Bản sư Thích ca Mâu Ni
Chí tâm thỉnh lễã,Tây Phương cực lạc giáo chủ A di Ðà
Chí tâm thỉnh lễã, Ðương lai giáo chủ Di Lặc tôn
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm bồ đề kiên cố
Xa bể khổ sông Mê
Chóng quay về bờ Giác...
Nhất Hạnh ê a, tay nhịp mõ một lúc thì trời đổ mưa. Tiếng mưa rào rào
trùm lên những câu kinh kéo lê thê, thỉnh thoảng lại bị những cơn gió
phần phật thốc vào mái điện át đi. Liếc mắt về phía Tư Tề và Nguyên
Long, Lợi thấy chúng phảng phất nét giống nhau mặc dầu Tư Tề hơn Long
gần hai con giáp. Có khác, chỉ là cặp mắt. Mắt Tư Tề hai mí sụp xuống.
Mắt Nguyên Long một mí xếch lên. Làm sao mà biết chúng là anh em hay là
bố con với nhau ? Lợi cố xua câu hỏi đó đi, quay lại chú tâm nghe. Nhất
Hạnh vẫn ê a :
- ... Nguyện nghiệp chướng báo chướng
Phiền não chướng, ba chướng tiêu trừ
Nguyện tân duyên, cựu duyên
Oan trái duyên, mọi duyên giải thoát...
Tội từ tâm khởi cũng từ tâm diệt
Tội diệt, tâm không, cả hai triệt tuyệt...
Hồn chưa tiêu oan
Phách còn trói buộc
Về đây giải bày...
Chiếc khăn đỏ trên đầu cô đồng lắc mạnh rồi xoay vòng vòng. Ðám nhạc
công bấy giờ ngồi xuống tay vặn đàn lên dây. Nhất Hạnh thỉnh một hồi
chuông. Tiếp tục đọc :
- Nam mô bát ra dát na đá ra gia giạ... Nam mô a rị gia bà cô cát đế thước bàn ra giạ, sa bà ha...
Cô đồng thình lình cười lên khanh khách khiến Nguyên Long đang ngủ gà ngủ gật choàng dậy. Cô cất tiếng hát the thé :
- Cô về cô hát cô chơi
Tay cầm kiếm trỏ rắn dơi thành rồng...
Ưỡn ẹo lượn vòng trên chiếu, hai tay cô đồng vung vẩy lên xuống như
đang chèo thuyền theo nhịp kèn rền rĩ. Nhất Hạnh chắp tay miệng lầm rầm
khấn vái. Bất thình lình cô đồng sà vào trước mặt Nguyên Long, miệng réo
:
- Con mẹ ơi, lớn thế rồi à !
Nguyên Long không nhịn được, ré lên cười. Cô đồng lại ngó chòng chọc vào mặt Lợi, hai tay vỗ vào nhau, hò lên :
- Gánh vàng mang đổ sông Ngô
Sao người không nhớ lời xưa thuở nào...
Lợi rùng mình, toàn thân lạnh ngắt, khấn thầm :
- Cho ta thêm dăm năm. Nhìn Nguyên Long, Lợi nghĩ - Nó còn quá nhỏ, chưa được...
Quay sang Tư Tề mặt mũi như ngái ngủ, Lợi ghé vào tai, giọng gằn xuống ;
- Hồn Ngọc Trần từ sông Ác về đấy !
Tề co rúm người, nét kinh hoảng hiện ra, mồm méo xệch. Cô đồng lấy tay dí vào trán Tề, cười ha hả :
- ...chớ trái lời mang một dạ mà hai lòng nhé.
Như hiểu lời khấn của Lợi, cô quay nhìn, sẵng giọng :
- ...được, nhưng chỉ ba năm thôi. Nhớ lấy !
Vào đầu giờ Tí, khi cha con Lợi cùng đội Thiết Ðột ra về thì điện Lừ
chìm vào màn đêm đen kịt như chưa từng bao giờ có thật. Cầm ba lạng vàng
Lợi trả công, Nhất Hạnh thò tay vỗ vào vế cô đồng, giọng hể hả :
- Lấy một nhé ! Trang trải cho bọn kèn trống thì cũng còn hời khối...
Ngăït nghẽo cười, cô đồng nhẽo nhoẹt :
- Khuya rồi ! Ðằng ấy về đâu ngủ hả ?
Hạnh ghé vào tai thì thào gì đó mà cô thụi vào lưng Hạnh thùm thụp, miệng kêu ‘‘...thèm, thèm vào ! ’’ .
Thật tình mà nói, ba lạng vàng đổi lấy một xác quyết là giá còn quá rẻ.
Sau khi rời điện Lừ, Lợi không còn nghi ngờ, tin rằng Nguyên Long đích
thị là con Tư Tề chứ không phải con mình. Hết bứt rứt về một câu hỏi ám
ảnh sáu năm ròng, Lợi bình thản tự nhủ, không con thì cháu, lọt sàng
xuống nia rồi cũng vậy. Tuy thế, lúc chỉ còn ba cha con, Lợi thẳng tay
tát Tư Tề một cái tát nổ đom đóm mắt.
Hai ngày sau, Nhất Hạnh ghé
qua Ðông kinh, xin vào lậy tạ Lợi nhưng không được phép. Chỉ có Nguyên
Long ra tiễn Hạnh. Ðứng trên thềm điện Vạn Thọ, Long hỏi :
- Bạch thầy, cái trò múa hát tối hôm nọ gọi là gì nhỉ ?
Duyên và nghiệp, hai khái niệm gắn vào nhau bằng cái run rủi của những
cuộc đời bắt chéo ở những tọa độ trên trục thời gian. Trục đó không cứ
thẳng mà xoay vòng theo một qui luật trong đó từ không ra có rồi từ có
thành không. Tất cả mọi vận hành mang dạng đồng nhất uyên nguyên một
khởi thủy bất khả phân. Tĩnh và động là một. Hữu thể hóa ra siêu hình,
và ngược lại, trộn vào nhau như hình với bóng.
Chỉ có thế mới chẳng
lấy gì làm ngạc nhiên khi trong cõi thế nhân cùng một lúc có Ðạo Khiêm,
có Lý Tử Cấu, có Nguyễn Lão và có một Nguyễn Trãi nằm thoi thóp trong
cái trái cạnh chùa Báo Thiên vào ngày mười bốn tháng tư năm Kỷ Dậu, năm
Thuận Thiên thứ hai. Với Tử Cấu, chuyện dễ hiểu. Vốn đi lại với Ðạo
Khiêm suốt mười lăm năm nay từ khi Khiêm trụ trì chùa Thiên Chính, Cấu
nghe tin Khiêm vào Báo Thiên liền mang theo một bị Hầu trà, vai đèo một
con vượn lông vàng, đi một mạch đến Ðông Kinh. Gặp Khiêm, Cấu la to
‘‘...giời ơi ! Dễ mà bỏ cố nhân à, đây - tay chỉ con vượn, Cấu đùa - đệ
mang cho sư huynh kẻ tri kỷ tấm lòng vô lượng thọ Phật ! ’’. Biết tính
Cấu bông lơn, Khiêm chỉ cười.
Cũng chiều ngày hôm ấy, hai anh em
Thiên Tích và Thiên Hựu sai cáng Trãi vào chùa. Sáng nay, Lợi hạ lệnh
tha Trãi, cho bọn Tích, Hựu đến đón khỏi ngục. Hựu nhìn Trãi mình chỉ
còn da bọc xương, nghẹn ngào nói : ‘‘ ...đệ đưa ngài về nhà đệ nhé ! ’’.
Trãi lắc đầu, biết là không nên để ai liên lụy. Ở Ðông Kinh, Trãi vẫn
thân một mình. Từ ngày bị giam hãm, gia nhân dăm người hoảng sợ bỏ đi
hết nên có về căn nhà nằm phía bắc hồ Thuyền Quang, Trãi chẳng còn một
ai gần gũi chăm nom. Nắm tay Hựu, Trãi nhớ đến Ðạo Khiêm, thều thào ‘‘
...nhờ hai vị đưa Trãi này vào chùa Báo Thiên ! ’’. Xẩm tối Ðạo Khiêm và
Cấu đưa Trãi vào cái trái cạnh chùa. Nhìn Cấu, Trãi hồi tưởng lại buổi
nói chuyện dưới trăng cạnh bờ vực nhìn ra sông Mã, tai lại văng vẳng
tiếng hát năm xưa. Hình ảnh Xuyến bụng mang dạ chửa nhảy vào dòng nước
sông Cầu ngỡ đã quên bỗng lại hiện lại. Vẳng từ đầu gió, đâu đó vẫn
Xuyến hát lên ‘‘...chèo quơ nước ngược chuyến đò ngang...’’ và rồi nhắn
nhủ ...chàng ơi ! đời đâu chỉ có đại sự... Hạnh phúc đến từ những cái
nhỏ nhoi, lời nhắn đêm đầu trao thân cho Trãi trong túp lều góc thành
Nam. Ôi, đại sự ! Ngẫm lại những ngày nằm trong ngục nhướng mắt tìm một
chút ánh sáng hắt qua những khe song, Trãi chỉ thấy chua xót khôn cùng.
Về phần Nguyễn lão, kẻ đã dạy nghề bốc thuốc nam cho Trãi ngày Trãi còn
bị quản thúc ở Ðông Quan trước khi chàng thoát ly đi tìm Hãn và nghĩa
quân ở Mường Một, cái duyên đến từ nghiệp. Thấy Trãi như ngọn đèn cạn
dầu, người nhà chùa đổ nhau đi tìm thầy tìm thuốc. Khi Nguyễn lão vào
bắt mạch mới nhận ra kẻ đang thoi thóp kia chính là anh đồ cứng cổ năm
nao đã bị Hoàng Phúc ức ép đến độ phải độ nhật bằng cách bốc thuốc ở
Ðông Ðô dưới thời thuộc Minh. Nguyễn lão lo lắng, ở luôn trong chùa cả
một tuần trăng. Chẳng hiểu là thầy thuốc mát tay hay cái mệnh bệnh nhân
chưa tận, Trãi khỏe lên. Khi đã hồi sức, Trãi nhận ra Nguyễn lão, nắm
tay đùa ‘‘...Huynh ạ ! Ngày xưa không có huynh thì đệ chết đói. Bây giờ,
sắp chết vì đói, huynh lại cứu cho, rõ là tuần hoàn thì rồi cũng lại
qui về một cái duyên nợ năm xưa ’’.
Tháng năm, Lợi ban biển ngạch
công thần, tất cả gồm chín mươi ba người. Huyện thượng hầu, có Lê Vấn,
Lê Sát và Phạm Văn Xảo. Á thượng hầu, một người, là Lê Ngân. Rồi Hương
thượng hầu, ba người. Sau đến Ðình thượng hầu, mười bốn người, có Chích,
cũng được Lợi tha. Rồi Huyện hầu mười bốn người, có Trịnh Khả, Nguyễn
Xí, Lê Thụ... Phần Trãi được phong Á hầu, hạng bảy mươi. Tử Cấu lại bông
lơn ‘‘...này huynh, bây giờ huynh xuống tóc ở chùa thì... tuyệt. Vừa
xuất gia, lại vừa nhập thế...’’. Vỗ vào đầu con vượn lông vàng, Cấu tiếp
‘‘...nhảy nhót xuất xử vậy thì có kém chi vui, hả Tề Thiên Ðại Thánh !
’’. Con vượn kêu chí chóe, quay mông chổng về phía đám người, có Ðạo
Khiêm, Nguyễn lão, Trãi rồi lại nhảy lên vai Tử Cấu. Cả bọn phá lên
cười. Ðúng lúc ấy, có tiếng hò hét ở cổng chùa. Một tên sai nha chạy vào
thông báo Hoàng Thượng ngự giá.
Khi Lợi bước vào chính điện chùa
Báo Thiên, bọn Ðạo Khiêm, Nguyễn Trãi và Nguyễn lão đã quì mọp rập đầu.
Lợi chưa nói gì thì Hựu đứng cạnh lên tiếng :

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Quyền hạn của bạn:

Bạn không có quyền trả lời bài viết
Chia sẻ
Share

_____