cộng đồng pro forum chia sẻ
sân chơi teen - wed mới của admin - anh em vào phát triển


http://sanchoiteen.info
cộng đồng pro forum chia sẻ
sân chơi teen - wed mới của admin - anh em vào phát triển


http://sanchoiteen.info

Đừng nghĩ rằng bạn đang cô đơn bởi vì có ai đó đang sẵn sàng giơ tay cho bạn nắm. Hãy cùng chia sẻ để vơi đi nỗi buồn và tận hưởng trọn vẹn niềm vui trong cuộc sống này bạn nhé!



mọi ngườ đăng kí thành viên đi

số bài gửi vào diễn đàn số bài gửi vào diễn đàn :
325
:
ngày tham gia diễn đàn ngày tham gia diễn đàn :
10/04/2012
:
sở thick riêng sở thick riêng :
làm forum
:
LỜI MUỐN NÓI LỜI MUỐN NÓI :
thấy diễn đàn hay -thì đăng kí thành viên cùng phát triển nhé
thân : admin_hà
:
admin_hà
admin_hà

admin_hà
Admin

  • Admin
- Bậc Vương Ðế tu thân thế nào ?
- Chương Thuật nhi, sách Luận ngữ,
bảo Chỉ ư đạo, cứ ư đức, y ư nhân, du ư nghệ , nghĩa theo Vương đạo là
giữ Ðức, dựa vào con Người, và vui với cái Ðẹp. Ðức người quân tử như
gió. Gió thổi thì đức của đám lê dân như cỏ ngả theo. Kết quả là bất
lệnh như hành, vô vi nhi trị giả, kì Thuấn dã dư. Không cần lệnh, dân đã
tuân. Không can thiệp mà nước đã trị, nghiệp vua Thuấn đạt được như thế
đó !
Giá như không có Thị Lộ thì Nguyên Long sẽ tìm mọi cách để
khỏi phải ngày ngày nghe Gián Nghị đại phu giảng nghĩa lý kinh sách.
Thời gian đầu, Long có dịp là nói ngược những điều thầy dạy.
Trãi nói :
- Vương đế, cũng là người. Mạnh Tử dạy, vua Thuấn xuất thân từ đám dân
cày, Phó Duyệt là thợ nề, Bách Lý Hề ở trong đám lái trâu. Trời trao
mệnh lớn cho ai thì thử thách để họ phát động lòng tốt, luyện cái tính
mà tăng tài năng. Nhưng Vương Ðế là ngọn. Dân là gốc. Gốc bền, ngọn mới
tốt tươi. Muốn cho bền, phải vun xén. An ủi vỗ về dân, sửa cho ngay lòng
tin, uốn cho thẳng tính tình, khiến dân an vui với đạo là trách nhiệm
Ðế Vương. Muốn thế, vua là vua Nghiêu vua Thuấn, thích lễ thì dân không
ai không dám bất kính, thích nghĩa thì dân không ai không dám không
phục...

Long vặn :
- ...dám hỏi đại phu, lời Mạnh Tử chiœ
ra Vương đạo cho thế gian, nhưng tại sao cuối đời ngài than : trẻ học
đạo Nghiêu Thuấn, lớn lên muốn thực hành, ngờ đâu vua chư quốc lại răn
là hãy bỏ cái học kia đi mà theo ý ta, thì làm sao bây giờ ! Vậy, phải
chăng là sau Nghiêu - Thuấn, chẳng bao giờ còn có Nghiêu, có Thuấn nữa ?

Ngạc nhiên, Trãi lại kiên nhẫn giảng giải, không để ý rằng Nguyên
Long dẫu nghe nhưng đầu óc để đâu đâu, thỉnh thoảng lại che miệng giả
như đang ngáp. Với Lộ, việc học khác hẳn. Lộ mang Kinh Thi so sánh với
những ghi chép bằng chữ Nôm trong Nam Dao chí, ra câu đố, câu ví và tập
cho Long làm Từ, làm Thơ, xướng họa với nhau cả buổi. Long một hôm nói :

- Giá mà không phải học Kinh nghĩa với đại phu thì Long này có thể
xướng họa với phu nhân cả năm mà không chán. Quả nhân nói thật, kinh
nghĩa chẳng dùng được việc gì cả !
Lộ dịu dàng :
- Hoàng tử
quên chữ nhẫn. Cần lắm, biết nhẫn là biết đợi. Không nóng vội, không hấp
tấp, để nhìn cho xa, nghĩ cho sâu. Quan Gián Nghị dùng kinh nghĩa để
trỏ ra lối đi trong rừng thiêng núi thẳm. Ai cũng đi, thì đạp bụi đạp cỏ
mãi thành đường. Bỏ bê, cây hoang cỏ dại um tùm tất dấu vết con đường
mất đi. Mất là thế nào rồi cũng đi lạc...
Ngả người ngồi dựa vào
phản, Long nhác thấy bóng mình và Lộ phản chiếu trong tấm gương to bản
để cạnh tường. Nó nắm tay Lộ, chỉ :
- Phu nhân nhìn xem. Trong tấm gương kia, có phải là Long hay không phải là Long ?
Chưa kịp phản ứng, Lộ ngạc nhiên thấy giọng Long buồn hẳn đi :
- Quả nhân thì đây, chứ không phải là trong tấm gương soi đâu ! Nhưng
cho đến bây giờ, ai cũng muốn Nguyên Long là cái hình ảnh trong gương,
đặt làm thái tử thì làm thái tử. Thái tử phải học, thì bắt học. Học làm
vua, thì phải như Nghiêu, như Thuấn. Còn Long thật, ngồi đây, có ai thực
tâm đoái hoài tới đâu !
Ngỡ ngàng, Lộ nói, giọng ngập ngừng :
- Ðâu phải ai cũng được như Hoàng tử ! Hoàng thượng đã sắp đặt thế, chắc mẫu hậu cũng vui lòng...
Không ngờ nghe đến đấy, Nguyên Long chồm lên chụp nghiên mực ném vào
tấm gương. Trong tiếng thủy tinh loảng xoảng vỡ chói tai, Long gào lên :

- Ta làm gì có mẹ ! Ai là mẫu hậu ? Ai ? Còn ta, ta không muốn làm vua, không...
Lộ hoảng sợ, hai tay đặt lên vai Long, kéo về phía mình, van vỉ :
- Hoàng tử yên nào. Cho tôi xin !
Trưa hôm đó, Long vuột chạy về Hoàng cung. Ra nhặt những mảnh gương vụn
rơi trên nền gạch đỏ, Lộ nhìn vào mặt gương vỡ rạn thành những vệt cong
chúi vào những điểm đồng tâm hoắt nhọn. Ðằng sau, thấy khuôn mặt mình
biến dạng chồng chéo lên nhau, Lộ bỗng đau xót. Ngay chính Lộ, Lộ nào
muốn ở đây, là phu nhân của Gián Nghị đại phu đang chấp hành việc thị
giảng cho một ông vua tương lai. Ðời bắt vậy. Trãi không dứt được nỗi
khắc khoải của một kẻ muốn uốn nắn thế thời, bỏ đi nhưng rồi cũng phải
quay trở lại chốn cung đình, như bị một thứ hấp lực của định nghiệp. Còn
nàng, chẳng lẽ đành vậy ?
Tối đó, Trãi đi chầu về báo sáng mai nhà
Vua sẽ chính thức ban chiếu giáng Tư Tề và lập Nguyên Long làm Thái tử
kế vì. Lộ thuật lại phản ứng của Long buổi trưa nay. Nghe Trãi kể, Lộ
mới biết là đẻ ra, Nguyên Long đã mồ côi mẹ, người đàn bà họ Phạm bị
mang tế sống cho thần Phổ Hộ ở giòng sông Ác gần mười năm về trước. Lộ
lặng lẽ một hồi rồi thủ thỉ :
- Thầy ơi ! Có lẽ đã đến lúc nên về Côn Sơn rồi !
Trầm ngâm, Trãi liên tưởng đến hoàn cảnh một ông vua thơ dại bị giằng
co tung hứng giữa một đám quyền thần lăm le bon chen tranh giành. Thị Lộ
lại nhắc :
- Sang đầu tháng này, là ngày giỗ ông ngoại...
Lúc đó Trãi thốt :
- Ừ thì về. Chạnh lòng, Trãi thì thào - Thật tội cho Nguyên Long, không biết phải làm thế nào để giúp được...
Nắm lấy tay Trãi, Lộ áp lên môi, giọng bùi ngùi :
- Em đã thay thầy, nhắc cho Hoàng tử chữ nhẫn.
Sau khi đã xếp đặt chu đáo việc kế vị, Lợi biết sức mình đã kiệt. Thấy
chỉ vài tháng mà Nguyên Long thay đổi, đã biết đọc và viết, bớt trái
tính trái nết, Lợi vui ra mặt, bỏ hết thời giờ gần Long. Lợi bảo :
-
Khi ta chết, con lên ngôi có những kẻ phụ chính. Họ đều lầm lỗi, ta tha
nhưng không quên, ghi lại mọi sự việc. Với đám quan lại, ta đã đuổi
nhiều đứa ra Diễn Châu, Hoan Châu. Chúng đều căm giận bọn còn tại chức ở
triều đình. Khi con đủ sức, lấy chúng nó về, phong lại quan chức, làm
chỗ dựa cho mình...
- Thưa Phụ hoàng, đủ sức là làm sao ?
- Ðủ
sức là lúc cái chân ghế thứ ba dài bằng hai cái kia. Chưởng quan Nội
Mật Nguyễn Thúc Huệ và Thái giám Ðinh Hối là cái chân ghế đó ! Con hiểu
chưa ?
- ...
- Về phần Tư Tề, ta dặn. Thứ nhất, khi lên ngôi
rồi thì cấm quan lại không cho giao du đi lại với Tư Tề. Thứ hai, giữ Tư
Tề ở Kinh Ðô, không để dời cư đi đâu. Thứ ba, cực chẳng đã thì giáng
xuống làm dân, không được giết...
- Thưa Phụ Hoàng, tại sao không giết...
Câu Long hỏi khiến Lợi giật mình. Quay lại nhìn, Lợi rờn rợn, thấy ánh
mắt Long ánh lên như thép nguội. Lợi định bảo, giết nó, nhỡ mày giết
phải cha mày thì sao ? Nhưng kìm lại, Lợi chần chừ rồi nghiêm giọng :
- Anh em không ai đi giết nhau !
Cuối tháng bảy năm Quí Sửu, Lợi quyết định cùng Nguyên Long về Lam Sơn
bái yết sơn lăng. Lên núi Chí Linh là nơi xưa nghĩa quân bị quân nhà
Minh vây hãm, Lợi kể cho Long nghe ba tháng đói khổ, phải giết voi giết
ngựa, ăn cây ăn củ, cái chết rình rập trong đường tơ kẽ tóc. Lòng bùi
ngùi, Lợi khẽ nói :
- Nghiệp nhà đâu phải một sớm một chiều mà có ! Buột miệng, Lợi than - Chẳng hiểu có giữ được không...
Nguyên Long nghe, nhanh nhảu :
- Thưa Phụ hoàng, quan Gián Nghị Nguyễn Trãi khi dạy con có bảo cứ
thường thì Ðế nghiệp thịnh ở đời thứ ba. Và kéo cho dài thì được hai
trăm năm, đến đời thứ tám, thứ chín...
- Ðó là xét trên sử sách thì
có thế. Nhưng hậu sự tùy vào nhiều yếu tố, lắm điều không ngờ trước
được ! Chốn quyền thế như hang rắn. Cổ lai bất độc bất anh hùng !

Ðúng, xưa nay không độc thì mấy ai thành anh hùng ! Nhìn đám mây đùn
thành gò thành đống trên đỉnh non trải ra trước tầm mắt, Lợi hồi tưởng
đến thuở bơ vơ chẳng biết đi về đâu. Ngay trên khoảng đất núi chơ vơ
này, Lợi đã nghĩ đến chuyện đầu hàng quân Minh khi đám võ tướng mệt mỏi
định bỏ kiếm buông cờ. Lạ thay, đúng lúc đó thì Trãi, kẻ chỉ một hai
dùng nhân tâm mà chiến đấu với giặc lại là kẻ quyết không chịu qui hàng.
Thật ra, nghe theo Trãi nhưng Lợi vẫn nghi rằng một ngày kia nghĩa quân
có thể chiến thắng một lực lượng xâm lăng đông hơn đến hai mươi lần.
Dụng tâm công chẳng qua là để duy trì cái đoàn quân nhỏ nhoi của mình.
Lợi lại cũng không ngờ gió có thể trở cờ, thời có thế có thì con đường
tiến về giải phóng Ðông Quan lại thênh thang đến vậy. Lên ngôi vua, hoài
nghi trở thành một thứ phản xạ vô điều kiện, kể cả hoài nghi chính
mình. Vì thế, Lợi giết Hãn, Chú rồi Xảo. Phần Trãi, người tin, và tin
tuyệt đối vào những điều Lợi không bao giờ tin như nhân nghĩa, Lợi chần
chừ cho đến lúc thấy vô hại mới tha chết. Vả lại, Lợi dựa vào ai với cái
triều đình non trẻ ngỡ ngàng đi tìm mình, không thấy nên chẳng có cách
nào khác hơn là núp vào cái bóng quân quyền nhà Minh. Kẻ thù xưa dẫu
chiến bại nhưng vẫn là tay trên, có lễ nhạc và nhất là một mô hình tổ
chức xã hội chính trị. Còn ta, người chiến thắng ? Quay lại mẫu mực
Lý-Trần ? Hay đi lên phía trước theo gót lịch sử ? Nhưng về đâu ? Không
biết thì cứ giữ rịt lấy ngôi vua ! Làm sao hơn được ?
Nhưng chỉ bám
vào quyền hành thì được bao lâu ? Nhìn Nguyên Long, Lợi tự hỏi chẳng
biết cái quyết định phế Tề lập Long đúng sai thế nào. Nỗi hoài nghi như
những tế bào nhiễm độc lại phá ra gậm nhấm xương tủy. Ho lên xù xụ, Lợi
cảm thấy rã rời. Những ngày cuối đã đâu đây. Ðiều này là sự chết, điều
Lợi không thể hoài nghi được.
Ở Lam Sơn ít lâu, hai cha con Lợi lên
đường về Kinh. Lợi lệnh cho đi qua những địa điểm xưa là đường nghĩa
quân đi chặn, vây và đánh quân nhà Minh. Khi đến sông Ác, mặc dầu thuyền
nhân ra sức chèo, thuyền ngự không qua được sông, cứ nhích lên là lại
trôi tuột xuống. Lợi thầm khấn thần Phổ Hộ :
- Xưa ta đã hiến Ngọc Trần cho thần, nay còn đòi gì...
Ðột nhiên, trời nổi gió xoáy, thuyền ngự quay vòng vòng. Lợi nghe văng vẳng tiếng cười the thé. Rồi tiếng quát :
- Cái hạn ba năm tới rồi đó !
Từ lúc đó, Lợi hôn mê. Gió ngừng, sông êm, thuyền ngự khi ấy mới qua sông. Ðoàn ngự giá đi gấp về Kinh.
Chiều ngày hai mươi hai tháng tám, Thuận Thiên năm thứ năm, thì Lợi
tỉnh lại. Cho gọi đám phụ chính và Nguyên Long vào, Lợi nhìn chung
quanh, mắt nhướng lên trắng rã, thều thào :
- Mọi việc ta đã xếp đặt thế nào, cứ thế ấy mà làm ! Ðế nghiệp nhà Lê là của chung...
Nắm lấy tay Long, Lợi tiếp :
- Các vị phụ chính đều là người dòng họ nhà ta. Con lên ngôi, đừng quên những điều ta dặn.
Sử chép, Vua băng hà ở chính tẩm vào lúc sao chổi mọc ở phương Tây.
Nhục cốt của Lê Lợi, Thái Tổ nhà Lê quàn ở cung Vạn Thọ hai ngày ba đêm
trước khi đưa về Lam Sơn mai táng. Ðại thần từ hàng nhất phẩm trở lên
được vào kiến diện tiên đế trước khi tẩm liệm, nối nhau đi mặt mũi thi
nhau rầu rĩ, người khóc được cố tình thút thít khiến những kẻ không mau
nước mắt tím dạ căm gan. Ðứng đằng trước hai vị hoàng phi, Tư Tề và
Nguyên Long nhận những cái vái của đám thần tử, nghiêm nghị nhìn im
lặng. Bên cạnh, ba vị phù chính Lê Sát, Lê Vấn và Lê Ngân nét mặt đăm
đăm, tính thầm trong đầu những cảm tình riêng tư hoặc ràng buộc ân nghĩa
của những kẻ diễu hành qua mặt mình.
Ðêm cuối, Long ngồi cạnh thi
hài cha. Giữa áo quan lót lụa trắng, Lợi lọt lỏm trong bộ hoàng bào, da
tái khô, mặt vô cảm như đất nặn. Hai hàng nến trắng cắm dọc hắt ánh vàng
vọt lên trần, lung linh theo gió lùa qua những bức hoành phi, chiếu lên
vách hình bóng chập chờn hư thực.
Khi đám hoạn quan lui ra, Long
ngả người trên chiếc ghế bành trước Lợi vẫn ngồi. Nó chưa bao giờ cảm
thấy trơ trọi đến thế. Lần đầu nó chua xót thương thân. Rồi không kìm
được, nó hộc lên khóc. Cứ thế, thời gian trôi theo tiếng nức nở ấm ức.
Dần dần Long thiếp đi. Nó mơ màng thấy một người đàn bà áo trắng từ sau
lưng đến đặt tay lên vai nó, mơn trớn, vuốt ve rồi thì thầm :
- Ngủ đi con ! Mai mốt là lễ đăng quan ! Phải ngủ cho khỏe...
- Ai, ai đấy ?
- Mẹ đây con. Mẹ sẽ về sông Ác. Con phải ở lại đây một mình...
- Một mình à, con sợ lắm !
- Ai làm vua mà chẳng một mình, đừng sợ !
Long ngoái cổ nhìn. Người đàn bà áo trắng nhạt nhòa hóa ra sương khói
mờ dần nhưng đủ để Long nhận ra dáng dấp Thị Lộ. Nó gào lên :
- Chị, chị ơi ! Ðừng bỏ em một mình !
Bật dậy, nó vừa khóc vừa kêu, vừa chạy vồ cái không nắm bắt được cho đến lúc Ðinh Phúc, tên hoạn quan thân tín, chạy vào lay.
font-family:"Times New Roman" >Nguyên Long tỉnh ra. Nó lấy tay quệt
mắt, mím miệng lại. Từ hôm đó, nó quyết định gọi mẹ là chị. Cách gọi đó
thành tục lệ trong cung vua suốt kỷ nhà Lê kéo được quãng ba trăm năm
mươi năm sau. Nhưng nói cho ngay, đến năm Ðinh Hợi (1527) đời Cung Hoàng
thì nhà Lê mất thực quyền. Họ Mạc tiếm ngôi, rồi sau là thời nhà Chúa
với cuộc Trịnh –Nguyễn phân tranh. Cho đến đời cuối cùng là Lê Chiêu
Thống thì vị vua này đi cầu cứu nhà Thanh bên Tàu và mất luôn chính danh
năm Kỷ Dậu (1789). Nhà Lê thực sự cáo chung như bất cứ những triều đại,
sau và trước, mắc tội cõng rắn cắn gà nhà.

Cung Đình
Tháng chín, Quí Sửu ( 1432 )
Nguyên Long lên ngôi. Thái Tông Văn hoàng đế, niên hiệu Thiệu Bình, lúc
đó chưa được mười hai tuổi nhưng không nhờ Thái Hậu buông rèm coi chính
sự. Nguyễn Trãi được sai viết văn bia Vĩnh Lăng kể công đức Lê Lợi, lại
lui về Côn Sơn, dâng biểu từ cái chức Gián Nghị đại phu được Tiên đế
phong cho. Thị Lộ đùa :
- Này thầy, người ta là quan có quyền. Còn
mình, làm quan chỉ có trách vụ can ngăn. Mà lại can ngăn Vua, nghĩa là
không có thể xiểm nịnh ton hót. Em nghĩ - Lộ cười - con đường thăng quan
của Gián Nghị đại phu là con đường xuống huyệt ! Thầy từ quan là không
muốn em góa, em đội ơn thầy !
Nghe Lộ nói, Trãi mủi lòng nhưng cố
gượng cười. Vua nay miệng còn hơi sữa, có làm gì đâu mà cần can ngăn.
Quyền lực nay tập trung vào tay bộ ba Sát, Vấn, Ngân.
Nhưng thời
cuộc đầu năm Thiệu Bình thứ nhất vẫn còn là một bàn cờ thế. Sát nắm quân
đỏ, bên kia Ngân nắm quân đen. Vấn lúc gà bên này một tiếng, khi phụ
họa bên kia một câu. Ðám quan văn võ bu quanh xuýt xoa trầm trồ. Riêng
bọn Nội Mật viện, vốn xảo quyệt, không bàn tán, chầu rìa chờ lúc cờ tàn
để thủ đắc cơ hội đẩy tốt sang sông. Về phần bọn hoạn quan, chúng là
những kẻ bị lãng quên với một ông vua không chút quyền hành, cho đến nay
chỉ biết bắt chúng làm ngựa để cưỡi lên lưng. Thái giám Ðinh Hối lầm
lũi trong hành lang cung cấm, thì thào bàn tán với đám hoàng phi mới góa
bụa đang hóa thành những cái bóng ma dật dờ ngẩn ngơ trước một cuộc đổi
đời trong chớp mắt.
Tân niên, năm Giáp Dần. Năm tuổi của tân Hoàng
đế khiến miệng lưỡi thế gian có dịp kháo nhau không biết liệu nhà vua
có tai qua nạn khỏi không ? Ðó là cách nói cạnh nói khóe vu vạ cho những
kẻ nắm quyền bởi đám người đang hoang mang tìm chỗ đứng. Ðinh Hối bắt
mối với học sĩ Lê Cảnh Xước, người của Nội Mật viện, chuyên việc giấy tờ
thu thuế dưới tiên triều. Xước bàn bạc thế nào với Nguyễn Thúc Huệ
không một ai biết, đi liên lạc đám văn quan như Nguyễn Thiên Tích,
Nguyễn Thiên Hựu, Trình Thuấn Du, Bùi Ư Ðài, Bùi Cầm Hổ... Sát biết
chuyện, hiểu là muốn nắm triều chính thì không thể thiếu bọn giá bút.
Dùng Phan Thiên Tước như thân tín, Sát sai cấu kết với Thái sử Bùi Thì
Hanh và Lễ bộ thị lang Trịnh Toàn Phương. Tước bàn bạc với Cảnh Xước và
Cầm Hổ, tạo ra liên minh giữa Sát và bọn văn quan, đằng sau được sự ủng
hộ của Nội Mật viện. Trong khi bọn giá bút tính toán, đám túi gươm vẫn
bình chân như vại. Ðại đô đốc Lê Vấn nắm binh quyền, nay lại được giao
trách vụ kề cạnh ngôi vua, cùng Tư không Lê Ngân lấn dần quyền Tư đồ Lê
Sát, nhưng cả hai đều ngạc nhiên không thấy Sát phản ứng mạnh mẽ.

Sau Tết Nguyên Ðán, bộ ba Sát, Vấn, Ngân duyệt lại chiếu dụ trong dịp
tân niên. Ngày mồng sáu tháng giêng, Nguyên Long ngồi trên ngai vua, đọc
:
Ðạo làm tôi cốt yếu có hai điều. Trên thì yêu vua, dưới thì yêu
dân. Yêu vua phải hết lòng trung, yêu dân phải hết lòng thành. Mới rồi,
tìm người hiền giúp việc trị nước, đã có lệnh cho mọi người tiến cử, đến
nay vẫn chưa được một người nào, thế là ra làm sao ?
Sát đỏ mặt, cau mày nhìn Vấn. Sau buổi chầu, Sát hỏi Vấn, giọng gay gắt :
- Ðại Ðô đốc, chiếu dụ không phải như tôi cũng như cả ngài và Ðại Tư
không đã cùng nhau duyệt trước và đồng ý. Thế là ngài có ý gì ?
Vấn luống cuống :
- Chính tôi cũng không hiểu ! Ta cùng lại hỏi nhà Vua xem sao !
Khi Ðinh Hối đưa ba vị phụ chính vào cung Càn Ðức, Nguyên Long đang ngủ
trưa. Bị đánh thức, Long cầu nhàu nghe Ðinh Hối dặn dò. Lát sau, Long
ra ngồi trên sập. Vấn khẽ rập đầu, hỏi :
- Hoàng thượng, sao không đọc chiếu dụ do thần dâng ?
- ...
- Ai xui Hoàng thượng sửa lại câu đầu. Lẽ ra là ‘‘ Trẫm ở ngôi cao,
nhưng nhờ ba vị đại thần phụ chính, giữ nghiêm phép nước, thiên hạ an
lạc thái bình ’’.
- Không ai xui ta ! Lời ta xuống chiếu, là lời của Mạnh Tử bàn về đạo làm tôi ! Sai chăng ? Ðại đô đốc sửa lại thế nào ?
Nghe Nguyên Long thản nhiên đáp với giọng khiêu khích, Lê Vấn gầm gừ :
- Hoàng thượng tuổi nhỏ, chớ có dại dột nghe bọn xấu xúi bẩy. Chắc lại trong đám hoạn quan...
Vấn không ngờ là Long đột nhiên nắm chén trà đập xuống đất, quát lên :
- Hai vị Tư đồ và Tư không có nghe chưa ? Bảo Vua là dại dột có phạm
thượng không ? Ta tuổi dẫu nhỏ, nhưng ta là vua. Ðại tư đồ, khi Tiên đế
băng hà, dặn gì, Tư đồ còn nhớ không ?
Sát chẳng nói chẳng rằng,
quì xuống rập đầu xin tha tội. Ngân bắt chước, và Vấn đặng chẳng đừng
cũng phải làm theo. Dĩ nhiên, Ngân không thể bênh Vấn. Liên minh này từ
nay có vết rạn : Sát đồng ý với Ngân rằng từ nay trở đi, chỉ để Hoàng
thượng dựa cột bên đông điện Hội Anh nghe việc triều đình, ngai vàng ở
giữa bỏ trống, một bên là Lê Sát, bên kia là Lê Ngân ngồi coi chính sự.
Dựa trên chiếu cầu hiền, bọn văn quan thảo sớ tiến cử lại Nguyễn Trãi
nay đã về ở ẩn trên Côn Sơn. Sát không thể chối từ, thể theo cái điều đã
ngầm thỏa hiệp với đám văn quan. Riêng về phần Nguyên Long, nhà vua học
được bài học đầu của quyền lực. Mỗi lần nhớ đến khuôn mặt thất thần của
một viên Ðại đô đốc đã từng chiến trận hai mươi năm, Long không khỏi
cùng một lúc thấy lại trước mắt mình vẻ hỉ hả ở đuôi mắt Lê Sát.

Trong số một trăm năm mươi sáu người được gọi ra tham chính chẳng phải
chỉ có Nguyễn Trãi. Vấn nay đã ngả về phía Lê Sát, đồng tình cho gọi
Trịnh Hoành Bá và Lê Quốc Khí, kẻ đã hãm hại Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn
Xảo, từ Diễn Châu về Kinh. Nguyễn Thiên Tích và Bùi Cầm Hổ đều là Ngôn
quan thời tiên triều, đọc lại chỉ dụ của Lê Lợi, nghiêm cấm không bao
giờ dùng Hoành Bá, Quốc Khí vì tội cáo gian giết hại công thần. Sát
thuận theo lời Tích và Hổ, nhưng đòi phải ủng hộ mình quyết định truất
chức Trịnh Khắc Phục, em khác cha cùng mẹ với Lưu Nhân Chú, không cho
làm Nam Ðạo hành khiển. Em của Phục là Trịnh Khả uất ức nhưng không làm
gì được.
Ngày mười lăm tháng giêng, Lê Sát làm chủ tế, sai giết
ngựa trắng lấy máu cho bá quan ăn thề, lập đàn tế cáo với trời đất. Ngày
hai mươi, Sát điểm quân bộ và quân thủy trên bờ sông Nhị, cạnh dinh Bồ
Ðề. Bấy giờ, rõ là Sát đã nắm được gần hết quyền bính. Chưởng quan Nội
Mật viện Nguyễn Thúc Huệ lúc đó mới ngả cờ, trở thành cánh tay phải của
Sát trong mọi sự vụ quan hệ.
Nguyễn Trãi được bổ làm Hành khiển thừa chỉ, dâng biểu tạ ơn. Vài ngày trước khi Trãi rời Côn Sơn về Kinh, Lộ nói dỗi :
- Thầy làm Hành khiển cho một vị thiếu đế không có quyền, chắc là sẽ bận bịu lắm. Thôi, thầy cứ đi một mình, thầy nhé...
Trãi phải năn nỉ mãi Lộ mới chịu theo, nhưng dặn là không thù tiếp ai ở
nhà, và nhất là cứ có dịp thì rời Ðông Ðô lánh đi Nhị Khê.
Công
việc đầu của Trãi không dính gì đến sự vụ hành khiển. Nguyễn Thiên Tích
làm Ngự tiền học sinh cục trưởng, xin để Trãi phụ tá mình trong kỳ thi
học sinh đầu tháng hai, lấy đỗ nghìn người, chia làm ba bậc. Bậc nhất và
nhì, đưa về cho học ở Quốc tử giám. Bậc ba, cho học tại các nhà học ở
các lộ và đều miễn lao dịch. Ðó là lần đầu lê dân có cùng cơ hội như đám
con cháu quan từ hàng tam phẩm trở lên vẫn tự động được vào học ở mọi
nơi. Nhưng nói cho ngay, từ thời Lê Lợi, cái học ở Quốc tử giám dẫu chỉ
nhắm đào tạo nha lại cũng chẳng mấy thành công. Trãi cùng đám quan văn
dâng sớ xin cải tổ việc học . Bọn đại thần phụ chính gạt đi, coi chữ
nghĩa là phù phiếm.
Sự nghi kỵ đám giá bút sau thời gian đó trở
thành trầm trọng vì vụ giám sinh Nguyễn Ðức Minh bị bắt. Số là Minh rời
nhà đến Quốc tử giám, thấy dán ở vách đền trên đường một mảnh giấy trong
có câu ‘‘ ...Ðại tư đồ Lê Sát và Ðô đốc Lê Vấn cùng mưu giết ông Sĩ
phán đại lý ’’. Ðức Minh gọi người đến xem rồi lấy xé ra ném xuống nước.
Ai cũng biết ông Sĩ chính là tên tục của Lưu Nhân Chú. Sát giận, ngờ
Minh viết, sai bắt rồi tra khảo thừa sống thiếu chết để tìm ra những kẻ
chủ mưu đằng sau. Minh không nhận. Sát định chém nhưng Ngôn quan Nguyễn
Thiên Hựu cho là còn ngờ, xin giảm tội chết, chỉ tịch biên gia sản và
bắt đi đày.
Thời gian đó, nạn hạn hán đã kéo dài hai tháng. Không
mưa, mặt ruộng khắp nơi nứt nẻ sạm xịt như da xác chết, cả mùa lúa vụ
Ðông Xuân coi là thất bát. Dân từ Mường Ba Long, Mường Mộc... kéo về
Kinh ăn mày ăn xin, người chết đói rải rắc khắp năm cửa ô. Sát lo, nhưng
không biết làm gì hơn là sai đặt đàn chay ở điện Cần Chính rồi cho cầu
đảo. Theo lời của vợ lẽ là Nguyễn thị, Sát bắt các quan rước Phật chùa
Pháp Văn ở Cát Châu về Kinh cầu mưa, dùng tay thuật sĩ họ Trần lập đàn
tế sao ba ngày ba đêm. Trời vẫn không mưa. Ngày 24 tháng tám, vào giờ
Thìn, Kinh đô nhốn nháo, hàng dân la ó chạy như kiến vỡ tổ vì ở phương
đông bắc, khí xanh khí đỏ như hình cầu vòng tụ lại lừ lừ bay về. Cũng
hôm đó, người thợ ở Tả ban tất tác là Cao Sư Ðăng xây chùa Thanh Ðàm có
đến tám mươi gian, buột miệng ‘‘ ...thiên tử không có đức, đại thần ăn
của đút, có gì là thiện đâu mà làm chùa to thế ! ’’. Bị cáo giác, Sát
nghe giận lắm, sai bắt Sư Ðăng. Quan thẩm hình bảo ‘‘ Nó dám nói càn,
đem chém ! ’’ . Nguyễn Thiên Hựu lại xin tha tội chết. Sát quát ‘‘
...trước đã nghe ông, không giết Ðức Minh vu cho ta tội hại công thần,
nay lại định tha thằng này, làm sao răn sợ đứa khác ! ’’. Hựu không nói
nữa. Sát sai mang chém Sư Ðăng thì trời mưa nhỏ. Hôm sau, trong triều
Sát hớn hở :
- Nếu nghe Ngôn quan, làm gì có trận mưa ấy.
Không ai ngờ rằng Lê Ngân nói sẵng:
- Giết nhiều kẻ xấu thì mưa nhiều, chỉ có điều xương người chất đầy đường khó đi mà thôi !
Trời vẫn giáng cơn hạn xuống đất Giao Chỉ, cả tháng chưa có đến một
giọt mưa. Bắt đầu vào hè, mặt đất chằng chịt những vết cùi hủi khô hoác
trơ ra dọa nạt. Gạo trong kho nhà vua phát đã gần hết, trong khi đám
người đói ăn kéo về Kinh mỗi lúc một đông. Họ ngơ ngẩn, mắt trắng dã,
miệng hông hốc, chân bước khật khừ. Lê lết ở cổng chùa chiền, họ xếp
thành hàng dài, tay nâng những chiếc bát mẻ lên mỗi khi có khách thập
phương đi ngang.
Một điều lạ, hàng dân trố mắt thấy quân lính địa
phương từ các châu, lộï đi hộ tống từng đoàn xe chở hàng trăm cái cũi
đưa về Kinh. Sau những mảnh vải đen trùm lên cũi, không ai biết là gì.
Chỉ nghe thấy tiếng kêu tựa như tiếng chí chóe, người ta kháo nhau có lẽ
là tù binh bắt từ Mường Ba Long, nơi có dân nổi loạn chống triều đình.
Có người ra dáng chê bai, bảo đói thế này, giết cho xong chứ tù chỉ nuôi
tốn cơm. Từ cửa Ðại Hưng, đoàn xe tập hợp lại rồi theo ven sông Tô Lịch
chia nhau đi về phía Hoàng cung. Thái sử Bùi Thì Hanh và Lễ bộ thị lang
Trịnh Toàn Phương đã chờ sẵn, chỉ trỏ ra lệnh, đoàn xe cái thì vào điện
Vạn Thọ, cái thì vào điện Cần Chính, Kính Thiên ... Phương không đội mũ
và không mặc áo tía dành cho quan hàng ngũ phẩm như lệ thường. Bỏ tóc
xõa đến vai, quan Lễ bộ lần này choàng lên người một bộ áo thụng trắng
toát, lưng thắt bằng dây cói, tay cầm thiền trượng có gắn những quả
chuông nhỏ leng keng nhịp theo từng bước.
Ðầu giờ Thìn, ba tiếng
trống thì thùng điểm. Khi đó, Lê Sát và Nguyễn-thị từ điện Kính Thiên
bước ra. Cũng đúng lúc đó, có tiếng lao nhao. Rồi tiếng quát :
- Sao lại bắt ? Bắt làm gì ? Trả lại cho ta...
Sát quay sang hỏi. Tên chưởng đội chạy ra. Lát sau, hắn quay về, gập đầu thưa :
- Bẩm Ðại Tư đồ, một thằng khùng khùng...
Ngoắc tay, Sát lạnh lùng :
- Bắt nó, hạ ngục ngay cho ta !
Toàn Phương lẩm bẩm khấn vái cho đến khi Thái sử Bùi Thì Hanh đến gần
nói nhỏ vào tai. Cả hai tiến về phía Sát. Phương vòng tay cúi đầu :
- Bẩm Ðại Tư đồ, mọi việc đã sẵn sàng. Ðại Tư đồ đi ngay cho !
Sát nhìn lên trời cao. Nắng gay gắt đổ lửa xuống nhân gian không một
chút gì thương xót. Ðằng xa, tháp Báo Thiên ánh lên sắc lấp lóe của
những chiếc tầm sét chờ cơn thịnh nộ. Thình lình trời tối dần. Khi cả
bọn vào trong điện Kính Thiên, Thì Hanh thì thầm :
- Bẩm Ðại Tư đồ,
con tinh vượn đen sắp ăn mặt trời. Ðúng khi nó nhe răng ra gặm, ta mới
giết những con vượn sống đã trấn yểm ở vị bộ bát quái trong cung điện,
ắt khống chế được tai biến như hạ quan đã trình...
Hanh chưa dứt
lời thì Toàn Phương, răng cắn chặt một bó hương đang cháy, tay phải cầm
thiền trượng, tay trái buộc bó chỉ ngũ sắc giơ lên bắt quyết, đảo người
xoay vòng vòng như lên đồng. Nhạc ngũ âm tấu lên, cung bậc thoắt lên
cao, chói vào tai như kim đâm. Nguyễn-thị thì thào :
- Khống chế tai biến thế nào ?
Thì Hanh đáp :
- Dạ, lúc tinh vượn thấy đồng loại chết, nó sợ há mồm ra kêu thì không nuốt được mặt trời...
Trời tối sầm xuống. Ðúng lúc ấy, trống ngũ liên nổi lên. Ngoài cung,
tiếng la ó, tiếng chân chạy thình thịch. Ở khắp các điện, vượn tru tréo
kêu thảm thiết. Bọn lính rút dao chực sẵn, dứt hồi trống là thẳng tay
đâm vào rồi cứa cổ vượn. Giết xong, bọn lính được lệnh lấy máu vượn vẩy
lên sân cung điện. Ðến lúc mặt trời ló ra thì rõ là con tinh vượn đã bỏ
chạy vì sợ. Sợ cũng phải, đếm ra có đến dư ba trăm con vượn được mang ra
trấn yểm ở năm cung và sáu điện. Máu trên sân, trên sàn, đỏ lè, kỳ cọ
phải hai ngày sau mới sạch.
Sau hôm có nhật thực, Ðại Tư đồ nắm
quân quyền vui hẳn lên, hậu thưởng cho Bùi Thì Hanh và Trịnh Toàn
Phương. Chẳng để Nguyễn - thị nài nỉ lâu, Sát để vợ lạy Toàn Phương làm
thầy. Mặt trăng đói đi gặm mặt trời đâu chỉ là điềm họa. Lính mang xác
vượn ra phân phát cho những người đói ăn nằm rải rác khắp nơi trong
Kinh. Họ hò hét tranh nhau xô vào cướp. Có kẻ kêu ‘‘ Ăn vượn, như ăn trẻ
con ! ’’. Người ta liền đáp ‘‘ ...đói thì trẻ con cũng ăn ’’. Từ cổng
chùa Báo Thiên, Ðạo Khiêm miệng niệm nam mô, đi theo một chú tiểu. Không
hẹn, Khiêm chống gậy đến chỗ Trãi ở, bảo :
- Ông bạn của chúng ta bị bắt rồi. Hôm qua hắn la ó gây sự với bọn quan quân ở Hoàng thành...
Trãi hỏi cớ sự, rồi cả hai đến Thẩm hình viện xin cho gặp tên tù mới
bắt, vào ngục nhưng vẫn la thét cả đêm như người điên. Ngục quan mở cửa,
tay đưa một ngọn trủy thủ, thưa với Hành Khiển rằng nếu tên tù điên
thật thì cứ giết ngay, không sao. Ðạo Khiêm và Trãi bước vào, nhìn Lý Tử
Cấu co ro nằm, đầu gối kéo lên đến cằm. Khiêm chưa kịp hỏi, Cấu đã kêu
toáng lên:
- Chúng nó bắt con vượn lông vàng của đệ rồi !
Thấy Trãi bên cạnh Khiêm, Lý Tử Cấu nổi nóng, gay gắt :
- Huynh đài thấy đấy ! Muốn cướp muốn bắt là cướp là bắt...Cái triều đình của huynh còn ngặt hơn cả bọn quân Minh ngày xưa.
Trãi ngượng ngùng im lặng, để Ðạo Khiêm kể. Nghe việc giết vượn trấn yểm, Cấu nước mắt trào ra, giận dữ gào :
- Chúng nó giết tri kỷ của ta rồi ! Trời ơi ! Trời không có mắt ư ?
Quay mặt vào tường, Cấu ấm ức khóc như con trẻ, mặc cho Ðạo Khiêm dỗ
dành an ủi. Trãi buồn bã, không nói gì. Làm quan, chàng mới biết mình
liên đới trách nhiệm cả cái chuyện dị đoan mê tín mà bọn Thì Hanh và
Toàn Phương giấu kín cho đến lúc thi hành.
Thẩm hình quan cho lệnh
tha, Trãi và Ðạo Khiêm thuê cáng mang Lý Tử Cấu về chùa Báo Thiên. Cho
đến lúc Trãi chắp tay tạ từ, Cấu mới mở miệng :
- Này Ức Trai ! Hiền huynh sướng hay khổ ?
Ngập ngừng, Trãi thốt :
- Không sướng !
- Nhàn nhân bất lợi thiên hạ, thiên hạ trị hỉ ! Ðừng ai đi làm lợi cho
thiên hạ, ắt thiên hạ sẽ vui mà trị. Ðệ hiểu huynh không phải vì cái bả
khanh tướng mà xuất. Nhưng huynh nhớ cái tích Dương Tử đi câu ở sông Bộc
chứ. Hai đại phu được Sở Vương sai đến vời ông ra phụ chính, ông không
thèm ngoảnh lại, bảo thà là con rùa sống kéo đuôi trong bùn còn hơn con
rùa chết bảo quàn ở chốn miếu đường. Thôi đi, đi đi, đừng làm bẩn mình
nữa !
Sai người vời Thị Lộ vào hoàng cung, Nguyên Long thấp thỏm từ
khi mặt trời ló ra sau đỉnh tháp Báo Thiên phía đông điện Càn Ðức. Ði
ra đi vào, Long ngứa chân đá bọn hoạn quan, miệng chửi om xòm. Xưa nay
vốn được yêu dùng, Ðinh Phúc cũng phát sợ, tìm gọi Lương Ðăng. Dưới tiên
triều, Ðăng đã chém đầu chú ruột là ngụy quan Lương Nhữ Hốt, kẻ làm
tham chính cho Thượng thư Hoàng Phúc nhà Minh sang cai trị Giao Châu.
Ðăng tìm đường tiến thủ bằng cách tự thiến để xung vào làm hoạn quan,
đồng thời là tai mắt cho Nội Mật viện. Tiên đế Thái Tổ cho Ðăng chức Nội
nhân phó chưởng, nhưng vốn tính nghi kỵ và không ưa nịnh nọt, sau đẩy
Ðăng ra cho làm văn đội. Nội Mật viện nay lấy cái thế liên minh với Lê
Sát, lại đưa Ðăng trở lại hoàng cung, tiếng là để tập tành cho đám cung
nhân nghề thư họa hát xướng. Khéo bày trò chiều vị tân hoàng đế tập tễnh
vào tuổi dậy thì, Ðăng dần dần chiếm được lòng Nguyên Long.
Ðược lệnh gọi, Ðăng giả khép nép, đẩy cửa rồi quì một gối, giọng như đóng vai hề :
- Muôn tâu bệ hạ, có lệnh truyền là kẻ tiện nhân đến ngay mong báo đáp hoàng ân...
Ðang bực mình, Long sẵng :
- Ta truyền lệnh gì... Hoàng ân cái mả mẹ mi !
Dứt lời, Long giật cây cung treo trên vách. Bọn hoạn quan còn ngạc
nhiên thì Long đã lắp tên vào nhắm rồi bắn. Thật may, mũi tên vút cạnh
đầu một hoạn quan thập thò ở cửa. Thế là cả đám tóe chạy, miệng la ôi
ối. Không ngờ đến cái trò vui lạ lùng này, Long thích chí tiếp tục bắn,
tên găm lên vách, lên cột. Bọn hoạn chạy ra vườn Ngự Uyển. Long đuổi,
rồi rình cứ như đi săn. Lát sau, đã có kẻ bị tên vào đùi, vừa kêu đau
vừa tập tễnh chạy. Long đuổi theo, tay lắp tên, miệng thét ‘‘ ...con
hoẵng, mày chạy đằng trời à ?... ’’. Tên hoạn quan ngã chúi mặt vào bụi
cây ngâu. Ðịnh chồm dậy nhưng Long đã nhào lại chặn, mũi tên căng trên
dây kê vào thái dương, tuột tay là mất mạng như bỡn. Tên hoạn quan sợ
quá, miệng rối rít :
- Ối giời đất ôi, tha cho tôi... giời ơi là giời !
Long cười ha hả :
- Lần đầu ta thấy một con hoẵng biết nói. Giời đâu mà gọi, hả ?
- Lạy hoàng đế, bỏ hộï cái mũi tên ra... Con hoẵng này muốn sống... giời ơi là giời !
- Lại gọi giời à ...
Ðúng lúc đó, bọn lính Thiết Ðột ở đâu hiện ra. Một tên quì xuống chưa kịp tâu thì giọng đàn bà đã cất lên :
- Muôn tâu bệ hạ, tiện nữ vâng thánh chỉ đã tới hầu. Xin bệ hạ chớ để tiện nữ thấy máu, sợ lắm...
Nguyên Long nghe tiếng Thị Lộ, quẳng ngay cây cung xuống đất, miệng vui mừng :
- Chị đấy à ! Em chờ mãi... Sốt ruột nên mới phải bày trò săn hoẵng.
Vừa tội nghiệp, vừa buồn cười, Thị Lộ cố giữ cung cách nghiêm trang, quì xuống gập đầu :
- Tiện nữ phụng mệnh, cung chúc hoàng thượng vạn tuế !
Long nhảy lại cạnh Lộ, nắm tay rồi liến láu :
- Với người ta thì bệ hạ hay hoàng thượng được chứ với chị thì không ! Vào đây, vào đây với em...
Vừa nói, Long vừa kéo Lộ đi.
Long có chủ đích, nắm tay Lộ, đi như chạy. Lộ bước theo, nói nhỏ :
- Bệ hạ là vua, chẳng thể như người ta. Xin đừng tự xưng là em như hồi nãy nữa, không được đâu.
Ngừng chân, Long hỏi :
- Làm vua, rồi chẳng thể thế này, không được thế kia ! Thế thì để làm gì ? Chị bảo không xưng em, chẳng lẽ xưng ta à ?
Lộ ngẫm nghĩ. Nhớ đến những mảnh gương vỡ vụn phản chiếu khuôn mặt nát
ra thành những mảnh sắc nhập nhòa và tiếng thét vô vọng ngày Long bỏ
chạy về hoàng cung dạo nọ, Lộ bỗng chạnh lòng. Tai lại văng vẳng tiếng
Long gào ‘‘ ...ta làm gì có mẹ! ’’ và tiếng nghiên mực đập vào cái gương
góc thư phòng hôm nào, nàng đồ rằng sự ngỗ nghịch tai quái đến ác độc
của Long chỉ là cách giấu đi nỗi cô đơn trong lòng đứa trẻ thiếu tình
thương một người mẹ. Nhìn Long, Lộ dịu dàng :
- Thì xưng là... quả nhân. Và thôi, cứ gọi tiện nữ là chị cũng được !
- ...Quả nhân... sẽ chỉ gọi một mình chị là chị.
Hai người đi dọc qua hành cung, rẽ về phía đông điện Hội Anh. Long kéo
Thị Lộ đến cạnh chiếc cột to bằng hai người ôm, chạm trổ một con rồng
lượn từ dưới lên, ngóc đầu nhìn vào sân chầu nơi bá quan nghị sự. Không
nhìn Lộ, Long giọng rưng rưng thì thào :
- Chỗ này là chỗ khốn nạn nhất, chị biết không ?
Lộ ngạc nhiên nhìn. Thân rồng vẩy sắc vểnh lên, vờn quanh là bốn con
hổ, con nằm phủ phục, con dương nanh há miệng, con chồm chân như sắp vồ.
Lạ là ngoài cặp mắt rồng tròn vo lồi ra, mắt những con hổ bị khoét
sạch, nét dao vụng về xoáy vào bằm vặp. Lộ buột miệng :
- Tại sao lại thế ?
- Quả nhân dựa cái cột này đã một trăm sáu mươi hai ngày để nghe chúng
nó bàn chính sự, làm cái này, thôi cái nọ... Cái ngai vua bỏ trống, vua
đứng dựa cột cho Tư đồ, Tư khấu sai bảo quần thần.
Rút chiếc dao
găm từ chiếc bao da có thếp vàng ra cầm, Long thẳng tay đâm vào mắt con
hổ đang chồm chân. Vừa khoét mắt hổ, Long vừa nghiến răng :
- Con
hổ này nó bắt quả nhân lấy con nó làm vợ đấy... Tháng sau thì con hổ cái
về ở điện Vạn Thọ, vua có ưng hay không cũng mặc !
Nói đến đó,
Long ngồi phục xuống chân cột, hai tay bưng mặt, khóc rưng rức. Nhìn đôi
vai Long run rẩy, Lộ không biết làm gì. Nàng để Long cứ thế khóc vùi,
chỉ lẳng lặng nắm tay Long khe khẽ bóp. Nhìn lên, bốn con hổ nay đều
chột mắt chầu quanh con rồng vẩy sắc, Lộ rùng mình. Nàng bỗng sợ cho
Long. Dẫu sao Long cũng vẫn chỉ là một đứa trẻ. Lộ thì thào :
- Có nhớ chị nói gì dạo nọ không ?
Ngạc nhiên thấy mình xưng chị với Long, Lộ nghe Long nức nở :
- Nhớ, nhớ một chữ nhẫn chị dặn...
Lát sau, Long gạt nước mắt, giọng quả quyết :
- Quả nhân hỏi chị trước, chị ưng thì sẽ xin Tư đồ Lê Sát để chị vào
điện Vạn Thọ giảng kinh sách cho quả nhân ! Chị bằng lòng không ?

Triều đình đồng lòng sai Hành khiển Nguyễn Trãi viết thư cầu phong với
nhà Minh cho Văn Thái Tông Nguyên Long. Biểu cầu phong đã đưa lên Tư đồ
Lê Sát duyệt đến hai tuần trăng nhưng Trãi vẫn chưa nghe động tịnh.
Khoảng thời gian đó, hoàng cung huyên náo vào dịp làm lễ tơ hồng cho
Thái Tông và Lê Kim Dao, con gái thứ của Tư đồ Lê Sát. Chuyện lễ lạc
xong, Lê Cảnh Xước và Nguyễn Thúc Huệ mời Trãi vào Nội Mật viện. Xước
giả lả :
- Biểu cầu phong do quan huynh viết đúng là rồng bay phượng múa. Duy có một điều bàn với quan huynh là nên đổi lại...
Trãi vái, rồi nhẹ giọng :
- Quan huynh nói, đệ xin lĩnh giáo.
Lê Cảnh Xước nhìn Thúc Huệ, trịnh trọng ê a đọc lại bài biểu, rồi đòi
đổi lại mấy chữ. Nghe Xước nói, Trãi phát bực mình. Thật ra, đổi dăm ba
chữ thì biểu văn mất đi cái hùng khí tự cường kín đáo, đâm thành quị lụy
lời của phiên thần van nài xin xỏ với đức Ðại hoàng đế nhà Minh. Hít
một hơi dài vào lồng ngực, Trãi giữ bình tĩnh, nhìn hai vị đồng liêu một
chặp. Chàng đoán là việc trì trệ gửi biểu cầu phong do Sát quyết định, ý
để con mình thành nguyên phi rồi mới chính thức xin cho Lê Thái Tông
Nguyên Long làm An nam quốc vương. Như vậy, cháu ngoại mình là giòng
giõi huyết thống, sau tất nhiên sẽ kế vị trị vì. Chàng cũng hiểu rằng
Sát không sai bảo, hai vị đồng liêu này đâu dám tự tiện đến xách mé một
câu, hai chữ với mình. Gượng cười, Trãi chắp tay, nhẹ giọng :
-
Quan huynh góp ý, đệ kính cẩn ghi tâm. Nhưng lần này thì đệ xin huynh
thứ lỗi. Ðệ nghĩ rằng văn có cái khí của văn. Khí thuần nhất, phải nhất
quán về tình và về lý. Ðằng sau tình và lý, là hồn. Hồn của biểu văn đây
là cái hùng tâm đế vương một cõi, không cúi đầu để xin, không quì gối
để nài... Chỉ một hai chữ là có thể đổi hẳn cái ý chí kia, làm hại đến
quốc thể. Xin huynh nghĩ lại cho...
Thúc Huệ chen vào, mặt lạnh như tiền :
- Quan Hành khiển, vâng lệnh Tư đồ sai chúng tôi hội ý với ngài...
Trãi ngắt :
- Nội Viện chính sứ, đổi dăm chữ là ý của Tư đồ hay là ý của hai vị...
Nói đến đó, Trãi bỗng nghĩ đến cái cảnh hạn hán đang đe dọa hàng dân, bực bội tiếp :
- ...Thôi, hai vị biết còn biết bao nhiêu việc cần làm ngay, xin chớ bận tâm về một vài chữ...

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Quyền hạn của bạn:

Bạn không có quyền trả lời bài viết
Chia sẻ
Share

_____