cộng đồng pro forum chia sẻ
sân chơi teen - wed mới của admin - anh em vào phát triển


http://sanchoiteen.info
cộng đồng pro forum chia sẻ
sân chơi teen - wed mới của admin - anh em vào phát triển


http://sanchoiteen.info

Đừng nghĩ rằng bạn đang cô đơn bởi vì có ai đó đang sẵn sàng giơ tay cho bạn nắm. Hãy cùng chia sẻ để vơi đi nỗi buồn và tận hưởng trọn vẹn niềm vui trong cuộc sống này bạn nhé!



mọi ngườ đăng kí thành viên đi

số bài gửi vào diễn đàn số bài gửi vào diễn đàn :
325
:
ngày tham gia diễn đàn ngày tham gia diễn đàn :
10/04/2012
:
sở thick riêng sở thick riêng :
làm forum
:
LỜI MUỐN NÓI LỜI MUỐN NÓI :
thấy diễn đàn hay -thì đăng kí thành viên cùng phát triển nhé
thân : admin_hà
:
admin_hà
admin_hà

admin_hà
Admin

  • Admin
Giọng xúc động, Cấu nói tiếp :
- Hôm sau, đệ dìu nàng ra bến đò. Cứ
để thế thì chắc nàng chết mất. Nhà đò ngạc nhiên, lẳng lặng chèo. Nàng
cất tiếng hát, lại vẫn đúng một câu hát. Ðến giữa dòng, nàng đột nhiên
vừa hát vừa nhảy xuống.
Trãi không còn nghe thấy gì ngoài tiếng sụp đổ của cả vũ trụ vào cõi trống không.
Tiếng Cấu văng vẳng mơ hồ :
- Nước xiết, đò tròng trành. Thế là nàng biến mất. Như một giấc mơ...
Nhưng nàng để lại câu hát kia, và những lời khiến Lý Tử Cấu này vượt
được bức vách u mê. Ðại sự cho là gì thì cũng chẳng bằng cái sự sống kỳ
diệu trong từng cái nhỏ nhoi...
Trãi đứng vùng lên, chân loạng
choạng bước về phía mỏm đá nhô ra đầu núi. Trăng gần tàn, màn sương đêm
trắng như sữa bắt đầu nhợt nhạt loãng ra. Nước mắt đầm đìa, Trãi nhìn
xuống vực sâu mờ ảo dưới ánh trăng trăn trối. Vực sâu có sức kéo hút
những kẻ vô cùng bất hạnh. Trãi cúi xuống như cúi xuống chính cuộc đời
mình. Rồi Trãi ngửa mặt nhìn lên. Chi chít sao trời đổ sập xuống vùi lấp
cái mất mát chẳng thể đắp bù cho hết một đời người. Gió lại lạnh lùng
hắt vào khe núi những tiếng réo gọi ma quái. Lồng ngực căng tức như sắp
vỡ tung, Trãi gập người hộc ra một bụm máu. Hít một hơi thật sâu, chàng
choáng váng. Không khí ùa ngập tràn vào nóng như lửa thiêu. Chênh vênh,
Trãi lại nhìn xuống. Dưới kia là giải sông, nước chảy, cứ chảy mãi rồi
cũng sẽ gặp nước sông Cầu để cùng nhau đổ về biển cả. Lúc ấy, Xuyến ơi,
biển là nơi xum họp cuối cùng cho mọi chia ly. Ðưa hai tay lên ôm mặt,
Trãi oằn người ngã chúi mặt xuống, mắt bấu vào cái thăm thẳm ám ảnh gọi
mời.

Ngậm Lời, Một Thuở...
Hóa ra Ðào Nương, cô bé ca nhi
bị giặc hiếp trên đường ra ải Phá Lũy và sau trở thành vợ Phi Bảo, cũng
là người họ Ðào ở Ðào Xá. Khi Bảo kể cho cha nghe câu chuyện xưa, Phi
Khanh thở dài bảo ‘‘...con hạ tay dao không cứu cô ta, một phần vì cha.
Vậy, cả cha con mình đều can nhiệm. Nhưng tại sao giờ con nói với cha’’.
Bảo thưa ‘‘ Vì bị ám ảnh. Hình như nếu không theo cha để phụng dưỡng,
có lẽ con đã đưa cô ta về xuôi...’’. Khanh lại dặn ‘‘ ...đâu đã muộn.
Con đi tìm cô ta đi. Rồi một ngày nào đó con đưa cô ta về. Chỉ thế, con
mới nên người. Ði, thôi đi ngay đi...’’. Sau đó mấy hôm, Bảo dò tìm và
lên đường. Khi ấy Ðào Nương ở với người chị đã lấy chồng. Gặp Bảo, Ðào
Nương sầm mặt xuống, đi vào không chịu tiếp. Bảo ngồi lì ở cửa suốt ba
hôm, rút cục người chị vào kể lại cái hoàn cảnh chàng theo hầu cha trên
đường đi đày, không thể động tay động chân làm gì được. Ðào Nương chịu
gặp Bảo, nhưng thấy mặt là òa lên khóc. Nàng nức nở hỏi ‘‘... Ðến đây
làm gì ? ’’. Bảo đáp, đã xin với cha cho chàng cưới Ðào Nương làm vợ.
Ðào Nương lắc đầu ‘‘ Không. Em có còn trinh tiết gì mà lấy ! ’’. Bảo ứa
nước mắt, nói chữ trinh kia cũng có năm bảy đường.
Ngày về đến Nhị
Khê, Bảo và Ðào Nương chỉ thấy có điêu tàn. Nhà cửa, ruộng đồng ngơ
ngác. Hàng dân phiêu dạt đến độ trên những cánh đồng sũng nước đám cò
trắng lênh khênh đi lại như chỗ không người. Họ hàng nhà Bảo kể lại
chuyện Viễn ám toán Thượng Thư Hoàng Phúc và khuyên nên đi ngay. Ðào
Nương đòi về Ðào Xá. Khi ấy, cái chuyện Ðào Nhi dùng trâm đâm Hoàng Phúc
đã xảy ra. Trong thôn, không còn ai dám hát, đám ca nhi tứ tán. Ông chú
Ðào Nương, tên Ðào Phương, dân làng gọi là Ðào lão, mắt đã lòa. Lão
kiếm ăn bằng cách bắt ếch nhái, bữa đói bữa no, sống vạ vật như thú
hoang. Bảo và Ðào Nương đưa ông cùng đi về Thanh Hóa dịp đó.
Dự
định trồng chè như Bảo đã kể với Trãi từng bước thành hình. Và thành
công hơn mức tính toán. Chỉ đến năm thứ hai, Bảo và Ðào Nương đã qui tụ
được gần trăm nóc gia quanh hai cái đồi chè ở tả ngạn sông Lam. Nhờ biết
tiếng Tàu, Ðào Nương giao dịch thẳng với đám quan nhà Minh, thuế đóng
chỉ độ một phần ba tiền bán chè, đường kinh doanh tương đối thuận lợi.
Ðến năm thứ ba thì khác. Ðám sai nha cho người vào đếm từng gốc chè, ước
lượng giá bán rồi đòi thu đến hai phần ba. Bảo bàn với dân trại chè rút
sâu vào mé biên giới Lão Qua, nhưng việc chưa ngã ngũ. Ðám tráng niên
tìm cách giấu một phần lượng chè hái được trong rừng, có kẻ sửa soạn
giáo mác. Việc sinh nhai ngày một khó, đã có người chán bỏ đi, số còn
lại nhẫn nhục chịu đựng. Ít lâu sau, nghĩa quân Lam Sơn liên lạc với
Bảo, đề nghị bảo vệ trại chè chống sưu thuế nhà Minh. Năm thứ tư, sai
nha và đám lính Tây đô bị nghĩa quân chặn đánh khi vượt Mường Thôi đi
vào vùng sông Lam. Bảo biết tình thế, xin với nghĩa quân cho lập một đội
tự vệ, và đóng nửa lượng chè hái mỗi năm góp vào việc đại sự.
Ðứng
sau hẳn một lằn ranh bạn - thù, người cả trại chè phập phồng, trừ Ðào
Nương. Trái với cách nghĩ thường tình, Ðào Nương phấn chấn ra mặt. Cùng
với Ðào lão, Ðào Nương chế biến hát giặm dân gian thành những thể điệu
có tính thời sự. Tiếng giặm có nghĩa là điền vào một chỗ thiếu, và hát
giặm thường gồm những câu năm chữ, vần ở cuối câu, cứ hai câu cuối mỗi
đoạn lại láy cả ý lẫn lời. Bài sau được hàng dân hai vùng Nghệ Tĩnh hàng
trăm năm sau cũng còn người hát :
Trời chưa phong quang
Giặc Ngô đó, trời chưa phong quang
Em đánh tiếng thưa sang
Trời chưa mở rộng phong quang
Thì đợi chi hỡi chàng
Mà còn ở lại đây
Mà còn ngồi bó tay
Tình đó với nghĩa đây
Giống như đọ nước đầy
Bưng nhẩn nhẩn trên tay
Thu chưa về, đông tới
Còn bóng giặc, chim bay
Còn bóng giặc, chim cũng phải bay
Bớ chàng, chàng có hay ?
Nhận được tin Ðạo Khiêm báo về Mường Thôi, Hãn sốt ruột sai người đi
thẳng vào trại chè liên lạc với Phi Bảo. Nghe xong, Bảo vội vã thu xếp
lên đường vào Trường Yên. Hai ngày sau, Bảo vào chùa Thiên Chính. Ðạo
Khiêm buồn bã lắc đầu :
- Bần tăng không hiểu... Cái buổi tối hôm ấy, thình lình đường huynh ngã vật xuống, tính mạng tưởng như tuyệt...
Không đợi Ðạo Khiêm dứt lời, Bảo ngắt :
- Xin thày cho vào xem sao...
Khiêm niệm A di đà, đi trước. Vào trái sau ở mé Ðông, Khiêm lần tràng
hạt chậm rãi bước. Một tiểu đồng tiến lên mở cửa. Lọt sáng bên ngoài ùa
vào, yếu ớt phớt lên vách đất một giải lờ mờ hư ảnh. Theo sau Ðạo Khiêm,
Bảo đến cạnh một chiếc giường đơn. Nhìn xuống, Bảo quặn lòng. Trãi nằm
thiêm thiếp, mắt hõm sâu, nhắm nghiền, hai gò má cao gồ lên như hai trái
núi. Bảo ngồi xuống, tay nắm lấy tay Trãi. Bàn tay xương xẩu lạnh ngắt
bỗng run nhẹ lên. Nhìn ngực Trãi phập phồng thoi thóp, Bảo khẽ lay gọi.
Trãi nhếch mắt, gắng gượng mở ra, rồi lại khép lại. Ðạo Khiêm nhẹ kéo
tay Bảo. Khi hai người ra đến ngoài sân, Khiêm bảo :
- Ðường huynh còn yếu lắm, nhưng không mệnh hệ nào !
Lúc đó, Bảo xin Khiêm kể lại sự tình. Trước khi Lý Tử Cấu dứt lời về
cái duyên vượt được u mê qua lần gặp một người đàn bà điên ở sông Cầu,
bỗng nhiên Trãi chúi ngã từ mé vực, nhưng áo móc vào một bụi cây, may
chưa rơi xuống. Người nhà chùa đổ ra cứu Trãi lên. Trãi từ lúc đó hôn
mê. Ðợi Trãi hoàn hồn, Ðạo Khiêm hỏi chuyện. Trãi á khẩu, không đáp
được. Chàng chỉ nhìn, cái nhìn đã mất hẳn thần triù. Ðạo Khiêm thở ra :
- Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát ! Cái nghiệp. Cũng từ cái
nghiệp mà ra. Trong cõi huyền cơ này bần tăng chẳng làm gì được !

Phi Bảo bặm môi lắc đầu. Tối hôm đó, Bảo ra đứng nơi hòn đá tảng chòi ra
bờ vực. Không trăng không sao, trời tối ngòm. Chẳng ai phân biệt được
mặt đất này trên đây và vực sâu hun hút dưới kia, nếu không có tiếng gió
hú lên và tiếng chân thú đạp lá xào xạc thỉnh thoảng mơ hồ vẳng tới. Cơ
sự này, không thể để Trãi ở chùa mãi. Vài ngày sau, Bảo xin với Ðạo
Khiêm đưa Trãi về trại chè.
Lúc ấy, Trãi đôi khi tỉnh dậy. Nhận ra
Bảo, ánh mắt chàng có thoáng chút vui, mồm mấp máy, nhưng vẫn không nói
được một lời. Bảo mừng, thủ thỉ :
- Không sao ! Em đưa anh về. Thuốc thang chỉ dăm bữa nửa tháng là khỏi !
Trãi nghe, gượng nhếch mép. Khỏi ? Nhưng ta bệnh gì ? Cái căn bệnh nằm
dưới đáy sông Cầu, giải nước cuốn đi, đếân nơi nao rồi ? Chèo quơ nước
ngược. Rồi bão bùng. Chia ly. Chuyến đò sang ngang làm sao vào được bến
đến được bờ ! Nước mắt Trãi lại ứa ra. Bảo lẳng lặng lau mặt cho anh,
không nói gì nữa.
Thuê phu cáng, hai tuần trăng sau Bảo đưa Trãi về
trại chè. Ðạo Khiêm chống gậy tiễn một thôi đường. Khi chia tay, Khiêm
niệm Phật, rồi ghé vào tai Trãi thì thầm :
- Thí chủù ơi, nếu muốn thì nương mình cửa Phật. Chùa Thiện Chính lúc nào cũng đợi người lành !
Trãi nhìn, khóe mắt biết ơn, tay ra dấu chào Khiêm. Chỉ còn da bọc
xương, Trãi khẽ cựa mình trên chiếc cáng cứ bồng bềnh trôi nổi như đám
mây ẩn hiện sau những tàn cây rừng xanh thẳm. Chưa bao giờ chàng thấy
mình yếu đuối đến vậy. Chưa bao giờ chàng thấy mình thừa thãi đến vậy.
‘‘ Sao băng, sao băng...’’. Tiếng réo gọi sao trời chập chờn ở đâu
thoảng lại. Trãi nhắm mắt. Chàng chỉ mong là một vì sao băng mang vệt
sáng cuối cùng của một thân phận chẳng níu được vào đâu để tìm ra hy
vọng.
Như vậy, cái giấc mơ có người nối dõi của Bảo vẫn chưa thành.
Ðứa gái út của Bảo và Ðào Nương năm nay lên bốn. Khi đẻ nó ra, Ðào
Nương có vẻ buồn, nhưng Bảo cười, đùa ‘‘ Một trăm con trai không bằng
cái lỗ tai con gái ’’ và đặt tên là Nguyễn Phi Anh. Lên một, nó chưa
biết đi đã biết nói. Ríu rít cả ngày, trại chè gọi nó là con Vàng Anh,
tên một loài chim trong chuyện cổ tích.
Vàng Anh suốt ngày lê la
với Ðào lão. Cả hai cứ thoắt một cái lại vào với Trãi, nay Bảo xếp cho ở
một trái nhà. Sau vài tháng về trại chè, Trãi bình phục, xong bệnh á
khẩu vẫn không chữa được. Muốn nói điều gì, Trãi phải cầm ngón tay người
đối thoại viết chữ. Khổ một nỗi, nếu gặp người mù chữ thì chịu. Ðào lão
xưa có đi học nhưng bỏ ngang, để hết thì giờ vào chuyện đàn sáo. Còn
Vàng Anh, nó phải nhờ Ðào lão nói lại mỗi khi trò chuyện gì với Trãi.
Cái mối kết tay ba đó tạo ra vô số chuyện ngộ nghĩnh, chính là bởi Vàng
Anh. Bắt chước mẹ, nó bịa ra những bài hát, rồi líu lo :
Em với ánh trăng vàng
Nay đem cho bác cho ông
Mặt nước vui reo cười
Tung tăng múa máy trên dòng...
Ðào lão thường hấp háy, kéo nhị đệm vào, miệng móm mém cười chỉ thấy
lợi. Còn Trãi, Trãi sửng sốt. Chàng nhớ lại những câu hát trong Kinh
Thư, mang so sánh rồi giật mình. Những câu hát từ miệng đứa bé bốn tuổi
xứ Ðại Việt này tuyệt vời, đọ chẳng kém gì Kinh Thi của xứ sở xưng mình
là trung tâm nền văn minh của quần nhân trên trái đất. Và dĩ nhiên là
hơn hẳn những thứ thơ văn sao chép của đám thư lại chỉ biết nhai lại từ
phú thi ca Tiền Hán với Thịnh Ðường. Hơn ở chỗ nó thật. Nó mang chữ tình
như chất keo gắn bó con người vào với nhau. Và gắn bó cả vào với thiên
nhiên vạn vật.
Từ bấy giờ, Trãi thấy rõ cái giới hạn của chữ nghĩa
kinh điển. Chàng thèm nói. Nói được bằng lời khác với viết thành văn tự.
Nhớ trong óc là nhập tâm. Nó khác với nhớ qua sách vở, vốn là nhập trí.
Văn hóa truyền khẩu có thể truyền không xa, lượng truyền không rộng,
nhưng hơn văn tự ở chỗ là truyền sâu vào lòng người.
Trãi ngẫm lại
lời mình nói với Ðạo Khiêm khi xưa trên chùa Thiện Chính, than rằng bản
sắc dân tộc không đủ mạnh, dẫu ‘‘ Nam quốc sơn hà nam đế cư ’’. Trãi hồi
tưởng nỗi băn khoăn trong cuộc đối đáp với Hoàng Phúc ở Ðông Quan.
Chàng sợ rằng đã học Luận Ngữ, Trung Dung, thì dẫu nói ‘‘ Ðạo Thánh có
một, nhưng mỗi nơi lại thờ một cách ’’ đểõ phân biệt ta với người cũng
chỉ là nói mạnh. Nói vì phải nói, nói đến cùng hóa há miệng mắc quai ?
Nay, Vàng Anh đã trả lời câu hỏi này. Rằng không, không phải vậy ! Văn
tự không thể thay cho những lời hát dân dã. Những câu ca dao tục ngữ hát
giặm hát ví mới thực sự chuyên chở đời sống tâm linh của người Ðại
Việt.
Còn với kinh điển, vấn đề là học gì ? Chính cái học có lựa
chọn thực hư, đánh giá tốt xấu, sẽ qui định cách thờ Ðạo Thánh. Ðạo tỏa
ra, lan rộng, ngấm sâu thì thành một với đời sống. Ðó, gọi là phong tục.
Nghĩa là cách làm người với nhau. Và làm người vì nhau. Trong các hành
xử đi từ cá nhân đến gia đình, rồi từ làng thôn cho đến cả đất nước, bản
sắc của một dân tộc biểu hiện ra. Nó là một thực thể. Nó biến hóa linh
động. Nó phát xuất từ quá khứ, nhưng không chỉ lập lại quá khứ mà là
cách mang hiện tại trên bước đường đi vào tương lại cho một cộng đồng.
Ngồi nghe Vàng Anh líu lo, Trãi chợt nhớ một câu hát chàng nghe từ thuở
còn nhỏ ‘‘ Này ai tát nước bên đàng. Xin đừng múc ánh trăng vàng đổ đi
’’ . Kinh thi có đâu được một câu thơ đến như vậy. Còn thi nhân, may ra
chỉ có Lý Bạch hoặc Vương Duy là có thể đạt cái đẹp đó. Trãi vào mài
mực. Ngẫm nghĩ một lúc, Trãi viết ‘‘ ...Tứ Thư, Ngũ Kinh chỉ uốn nắn một
phần đời sống. Ðạo làm người Ðại Việt không chỉ ở đó. Bản sắc một dân
tộc nằm trong sự sống của dân tộc đó. Nó có trước và vượt trên văn tự.
Nó tự khẳng định như một toàn thể. Bản sắc là văn hóa. Và văn hóa của
một dân tộc là ngôn từ. Ta giữ được ngôn từ, là ta tồn tại. Ngôn từ mỗi
ngày một đẹp là ta tiến hóa. Ngược lại ta giật lùi. Tụt hậu cho đến khi
ta không còn là ta, thì ta nói tiếng người, hát nhạc người, ăn cơm
người, nghĩ bằng đầu người. Nghĩa là ta mất văn hóa, chập chờ thành cái
bóng người khác như một hồn ma. Nghĩa là ta không sao bấu víu được gốc
cội của mình ’’.
Năm Kỷ Hợi ( 1419 ), Tổng binh Lý Bân sai làm hộ
tịch trên khắp đất Ðại Việt. Về mặt binh bị, Bân tiến đánh nghĩa quân ở
Ðà Sơn, Mường Chánh, Lư Sơn và Vu Sơn. Sang năm Canh Tý ( 1420 ), Lê Lợi
mai phục ở Bến Bồng đánh tan một đạo quân Minh, lấy được Mường Nanh và
Mường Thôi. Lý Bân và Phương Chính phản công, nhưng thua, phải lui về cố
thủ Tây Ðô. Lợi tiến lên Lỗi Giang, phái Lê Sát và Lê Hào đánh Tây Ðô.
Hàng dân châu Diễn nơi nơi hưởng ứng, khí thế nghĩa quân như diều gặp
gió.
Ðến năm Canh Sửu ( 1421 ), nhà Minh phái bọn Mã Kỳ, Trần Trí
và Sơn Thọ vào bình định. Lê Lợi thắng được vài trận phục kích, nhưng
nay mất một thế lực đồng minh là quân Lão Qua. Hậu cứ của nghĩa quân Lam
Sơn không an toàn như trước. Lợi vào thế bị kẹp, xoay trở rất khó khăn,
ảnh hưởng trong dân gian càng ngày càng giảm. Trong tình thế ấy, Trần
Nguyên Hãn ngược sông Lam đến Lư Sơn gặp Lợi vào buổi lập thu. Sau khi
bàn bạc xong xuôi, Hãn tiếp tục đi vào trại chè thăm Trãi. Hà Trí Viễn
xin theo.
Khu nhà nằm giữa hai ngọn đồi chè khoảng trăm nóc gia,
chia thành thôn thượng và thôn hạ. Phi Bảo hớn hở đón Hãn, và khi biết
Viễn là người đi cùng, chàng chắp tay cám ơn Viễn đã chăm sóc phần mộ tổ
nhà mình trong suốt mười năm. Hãn và Viễn đòi đến gặp Trãi ngay. Nhưng
khi đó, Trãi và Vàng Anh đi câu trên bờ sông Lam, mãi sẩm tối mới về.
Hãn thấy Trãi, chồm dậy nắm vai, mừng mừng tủi tủi :
- Thì vẫn chú đây. Ta đã sợ...
Viễn lừng lững đến cạnh Trãi, nắm tay, miệng ề à :
- Em cũng sợ... Nhưng em biết rồi bác cũng qua. Người ta có số cả mà.
Trãi chỉ vào miệng, lắc đầu, mỉm cười. Trãi vẫn á khẩu, không nói được. Nắm ngón tay trỏ của Hãn, Trãi viết vào khoảng không :
- Ngậm lời. Trời bắt vậy...
Cười ha hả, Hãn mượn lời Hàn Dũ, đáp :
- Bất bình tắc minh.
Bấy giờ, Hãn mới thấy những thay đổi trên khuôn mặt Trãi. Xưa, đôi mắt
Trãi sắc lẻm, ánh tinh anh lấp loáng trên gò má nhô cao. Nay, đôi mắt đó
trở nên trầm tĩnh. Và cái nhìn không giấu được nét u buồn thấp thoáng.
Chạnh lòng, Hãn bùi ngùi :
- Chớp mắt mà xa nhau đã sắp hai năm...
Trãi gật đầu, tay chỉ vào miệng rồi lại viết vào khoảng không :
- Thiên hình ! Vô ngôn !
Buổi tối, mọi người quây quần chung quanh một mâm cơm đạm bạc. Phi Bảo
kể cho Hãn và Viễn nghe tình hình trong vùng. Dạo này, bọn quan quân nhà
Minh lại bắt đầu sục sạo, không còn e dè như trước. Hãn dặn phải cảnh
giác và phác họa cho Bảo và Trãi hoàn cảnh chung ở Thanh - Nghệ. Lẳng
lặng nghe, Trãi không góp chuyện. Vàng Anh, khi nào cũng ngồi cạnh Trãi,
giương cặp mắt tròn to lên nhìn, bi bô bảo đánh giặc cần tiếng hát. Ðào
Nương suỵt con, nhưng Hãn dịu dàng hỏi :
- Hát thế nào ?
Nhìn Trãi gật đầu ý khuyến khích, Vàng Anh nói :
- Ðào ông đệm cho cháu nhé...
Ðợi lên dây đàn xong, nó nhịp tay xuống mặt phản, miệng cười rồi hát theo điệu Quan họ :
Trèo lên núi dốc
Dựa gốc cây rừng
( ối a ), ta dựa gốc cây rừng
Dưới kia, quân thù dưới kia
Thù này, ( ôi ) ta phải trả
Ta đuổi nó ( ôi à là ) ta đuôỉ nó ( ôi à )…
Ðào Nương bật miệng hát theo. Và rồi đám con gái Phi Bảo cũng đồng thanh cất tiếng.
Hãn ngạc nhiên, nhưng nét vui hiện trên mặt. Hà Trí Viễn ề à hát theo,
giọng ồ ồ lắm khi át tiếng mọi người. Nắm ngón tay Trãi, Hãn viết :
- Lại chú. Trò này của chú hẳn...
Trãi viết, đáp :
- Không. Ðệ làm sao nghĩ đến nổi... Là họ đấy. Có được thế, là do hàng
dân mà ra cả. Chúng ta là bề nổi. Chiều sâu một dân tộc là ở họ, trong
họ. Và sức bật, nó đến từ cuộc sốâng !
Ðến đêm, khi mọi người đã yên ngủ, Hãn nắm tay Trãi viết hai chữ :
- Ðại sự ?
Trãi lắc đầu. Nắm tay Hãn thật lâu, lòng Trãi quặn xót như sát muối.
Hình ảnh Xuyến trên dòng sông Cầu lại hiện ra. Trãi viết :
- Ðiều kỳ diệu của sự sống là trong từng cái nhỏ nhoi.
Hãn thở dài. Trãi quơ dưới chiếu, hai tay đưa lên cho Hãn một cuối
sách, tựa là Nam Dao chí, mắt sáng lên nhìn. Ðỡ lấy, Hãn đọc lời tựa
xong, nhìn Trãi dò hỏi. Trãi lại viết :
- Ðệ chép xong được bốn
trăm câu ca dao và tục ngữ, gói ghém tâm và tình của hàng dân kết tinh
từ thế hệ trước qua thế hệ sau. Ðây là sự sống, và là cách làm người với
nhau của dân Ðại Việt. Bây giờ, đệ mới hiểu rằng sở dĩ cha ông ta thời
Lý - Trần đánh đuổi được xâm lăng là vì dân ta khác với quân xâm lăng.
Ðằng sau gươm giáo một cuộc chiến là cuộc xung đột văn hóa. Chính nó mới
giải quyết thắng, bại...
Nắm vai Trãi, Hãn buột miệng :
- Chú thấy gì ở cái tâm và cái tình của dân ta ?
Trãi lại nắm ngón tay Hãn, viết tiếp :
- Ðệ thấy dăm điều... Nhưng đặc biệt nhất là cái khả năng hòa mà không
đồng, giống như cây tre trước gió lớn. Cây cong theo chiều gió thổi
nhưng khi hết gió, cây lại thẳng mình đứng trong trời đất. Tại sao ? Cái
hệ ‘‘ quân thần, phụ tử, phu phụ ’’ nhập vào từ Trung Quốc do bọn nhà
nho là để củng cố một Ðế Chế tồn tại trong xã hội nông nghiệp. Xã hội
này tất phải phụ hệ. Vì nó dựa trên sức mạnh thể chất của đàn ông, thời
bình thì đi cày, thời loạn thì đi lính. Nhưng đó đâu phải là lẽ tất
nhiên. Huynh xem, lúa thì dân ta đã cấy từ thời cổ đại. Ðến khi phương
Bắc xâm lăng, những kẻ đứng lên giành lấy độc lập đầu tiên là hai Bà.
Thuở đó, đệ nghĩ gia tộc dân Lạc Việt ta đặt trên nền tảng mẫu hệ. Gia
tộc phụ hệ có thể chỉ đến trong giai đoạn Bắc thuộc một nghìn năm. Nhưng
nó còn nhợt nhạt lắm, hàng dân đâu có tùng phục mù quáng.... Huynh thử
đọc - Trãi lật Nam Dao chí, tay chỉ - mắt nhìn thúc giục. Hãn ghé chiếc
đèn dầu vào gần:
Ðàn ông năm bẩy đàn ông
Ðem bỏ vào lồng cho kiến nó tha
Và rồi không nhịn được, Hãn cười ằng ặc khi đọc :
Gái chinh chuyên lấy được chín chồng
Về viên bỏ lọ gánh gồng đi chơi
Không may quang đứt lọ rơi
Bò ra lổm ngổm chín nơi chín chồng.
Mười hôm ở trại chè, Hãn ngạc nhiên thấy quả Trãi đã tách ra khỏi cách
suy nghĩ của lớp sĩ nho cùng thời. Măïc dầu còn trọng vọng những Chu An,
Hàn Thuyên..., Trãi cho rằng họ quá vội vàng áp đặt hệ tư tưởng nho
giáo mà chưa kịp sửa đổi để phù hợp với cái tâm và cái tình Ðại Việt. Vì
thế cho nên dù có sự tương ứng đồng thanh của Vua nhà Trần, đám nho sĩ
chỉ đẩy lùi được đôi chút ảnh hưởng của tăng lữ trong triều đình. Nho
giáo đến nay vẫn chưa có tác động tích cực trên đời sống dân gian. Cho
rằng hệ Tống Nho với tư tưởng Chu, Trình quá duy lý và cực kỳ khe khắt,
Trãi quả quyết rằng mang ra áp dụng vào xã hội ta chỉ sẽ dẫn đến những
mâu thuẫn và phân hóa sâu xa. Hãn gật gù nhưng bảo chuyện trước mắt là
giặc Ngô chiếm đóng nước ta. Trãi bình tĩnh, nắm tay Hãn, viết :
- Chính giặc sẽ đưa những mâu thuẫn và phân hóa đó đến độ giặc phải thua. Ðó là điều không tránh được...
Về phần Viễn, chàng cả ngày học hát làm Vàng Anh cứ cười như nắc nẻ.
Thế là sau này, những bài hát giặm, hát ví và quan họ theo phong cách
cứu dân chống giặc lan truyền trong nghĩa quân Lam Sơn, trở nên rất phổ
biến trong thời kỳ chiến tranh giải phóng. Viễn lại xem địa hình địa vật
trại chè rồi bảo Bảo.
- Nói, sợ ông anh buồn nhưng hai cái quả đồi
chè trông như hai cái mông đít voi. Thôn thượng và thôn hạ lại kẹp ở
giữa, đằng sau là sông, đằng trước là rừng... Tôi bảo thật, thế đất này
không tốt. Voi quì thì người trong thôn sẽ ra làm sao ? Cái thế Tượng
quì này phải phá đi ! Muốn phá, đặt một cái miếu tế thần Hỏa ở thôn Hạ.
Lửa dí vào đít, ắt voi phải nhổm dậy, quì được thế nào mà quì !
Bảo nghe chỉ cười. Hãn cợt :
- Chú Viễn vừa đánh giặc vừa làm thầy phong thủy, thật mỗi lúc công lực mỗi tăng !
Nhưng sau, Hãn dặn riêng Bảo, khi giặc vào trại chè chắc là đi bằng hai
ngả thủy bộ. Một là dọc sông Lam. Hai là từ phía Nam Lư Sơn. Vậy thì
Bảo phải tính đường rút cho dân chạy lúc bị truy bức. Ðường đó là đường
về phía bắc núi Lam. Sửa soạn tích trữ lương khô đề phòng khi nguy cấp
là việc tối cần, không trì trệ được.
Tối hôm trước khi chia tay,
Hãn hỏi Trãi có muốn về với mình không. Trãi lắc đầu. Một tay đỡ cuốn
Nam Dao chí lên, tay kia Trãi chỉ Vàng Anh, rồi viết vào khoảng không :
- Ðệ định chép thêm dân ca... Con bé cháu và cô em dâu biết rõ âm điệu. Lại còn Ðào lão nữa. Thiếu họ không được...
Dẫu chắc không hiểu gì, Vàng Anh nép vào bác như một phản ứng từ linh tính. Nó ngửng lên, cặp mắt đen lay láy tròn xoe, hỏi :
- Con hát tiễn bác Hãn và chú Viễn nhé...
Viễn nhanh nhẩu, ôn tồn bảo :
- Hát đi, hát đi !
Dưới ánh trăng non độ lập thu, tiếng trống ếch bập bùng và tiếng kèn, tiếng nhị luyến lấy giọng hát Vàng Anh. Hát rằng :
Người ơi người ở đừng về...
Người về em những ( ơ à ) mấy khóc ( ơ khóc ) thầm
Nhớ ai, nhớ ( ôi à ) vạt áo
Vạt áo ( ấy a ) ướt đầm, ướt đầm như ( à ) mưa
Người ơi người ở đừng về...
Hãn bật nói :
- Ðại sự chẳng phải chỉ để giành đất tranh sông mà là để bảo vệ những tiếng hát này !
Trãi nhìn thật sâu vào mắt Hãn. Chàng nhớ lại lời ông ngoại. Khi tiếp
Hồ Nguyên Trừng thay mặt Hồ Quí Ly đến Côn Sơn hỏi ý về việc triều
chính, Băng Hồ tiên sinh bảo ‘‘ Cứ xem, cuối hai trăm năm là lẽ tuần
hoàn rõ ràng có suy có thịnh. Mệnh trời như thế cũng đổi thay. Hết Lý,
đến Trần. Rồi thì cũng phải hết Trần... như một qui luật. Tướng công cứ
về nói như vậy với phụ thân cho ta...’’. Tháng sau, Hồ Quí Ly tiếm ngôi.
Nhưng thay Vua đổi Chúa là thay đổi lớp sơn. Gỗ dưới mới là cái chống
được nắng mưa. Chính đám hàng dân, với những lời ca kia, với tình với
nghĩa, mới là lớp gỗ này. Và, tốt gỗ hơn tốt nước sơn.
Cầm tay Hãn, Trãi viết lại lời cha chàng trên ải Phá Lũy :
- Vua quan là thuyền, dân là nước. Ðưa thuyền đi là nước mà lật được thuyền cũng là nước.
Hôm sau, Trãi đưa Hãn và Viễn đến đầu ngạn Sông Lam. Nhìn Trãi đưa tay vẫy từ xa, Viễn hỏi :
- Hai bác chuyện trò với nhau bằng tay như xẩm sờ. Em chẳng hiểu gì sất ! Thế sao bác Trãi không chịu theo chúng mình ?
- Là vì Trãi đang lo đại sự !
- Bác đừng lỡm em. Ðại sự giờ này có đại đầu mục Lam Sơn, có bác và
Chích, rồi có bác Xảo và Xa khả Tham. Bác Trãi lo một mình thế nào được ?

- Cái đại sự của chúng ta ở trước mắt. Nó là chuyện đuổi giặc. Rồi
đuổi được thì lập triều chính. Cái đại sự của Trãi khác. Nó ở ba bốn
trăm năm sau.
- ...
- Trãi đang sửa soạn Kinh Thi Ðại Việt. Thế là để thay thế cái Kinh Thi của ông Chu, ông Khổng nước Trung Hoa đấy.
- Kinh Thi Ðại Việt là cái gì ?
Hãn nghiêm mặt hỏi :
- Chú có nhớ bài hát tiễn tối hôm qua không ?
Viễn gật. Hãn lại bảo :
- Chú thử hát lại xem !
Ngạc nhiên, Viễn hít hơi lấy giọng, ôm ồm hát. Ðợi khi Viễn hát hết câu, Hãn bật cười quàng vai Viễn nói lớn :
- Ðấy, Kinh Thi của ta như thế đấy !
Cơn gió bấc đầu tiên báo Ðông về năm nay đến sớm hơn thường lệ. Mưa
chiều rả rích, khí núi lượn lờ như sắp sửa rơi xuống, và cỏ cây ủ rũ cam
chịu với bốn mùa đổi thay của một thiên nhiên nghiệt ngã. Hàng dân
trong trại chè cắp nón mê, khoác áo tơi bằng lá gồi, lom khom thấp
thoáng như đám cò ở đâu về đậu đầy bến sông Lam.
Cời than bếp cho
lửa bùng lên, Trãi bỏ thêm dăm đọi củi ngo rồi ngả người dựa lưng vào
vách. Mùi củi cháy thơm lừng, khói tỏa lên không trung một lớp màn xanh
mỏng loãng mơ hồ. Siêu nước bắt đầu ấp úng sôi, hơi bốc, tiếng nước reo
lên mời mọc. Trãi châm đèn rồi pha chè, thứ chè móc câu mới sấy vụ năm
nay.
Ðêm xuống. Cơn lạnh thấm dần vào cơ thể. Trãi khoác lên vai
tấm áo ngự hàn, xoa tay, rồi vặn bấc xuống. Ngọn đèn thu mình lại, xanh
như mắt mèo nhấp nháy. Tợp một ngụm chè, Trãi nhắm mắt, nhấm nháp vị
ngọt chát đọng lại rồi thả cho tâm trí thênh thang vào một cõi không
kiềm tỏa, không ý niệm, không tiên kiến. Ðột nhiên, chàng nghe bên cạnh
tai giọng ai đó văng vẳng :
Loàn đoan ướm hỏi khách lầu hồng
Ðầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng
Ngoài ấy dù còn áo lẻ
Cả lòng mượn đắp ấm hơi cùng
Trãi mở mắt. Ô hay, rõ là Xuyến đứng bên bếp lửa nhìn chàng, miệng cười giễu cợt :
- Ghê nhỉ, dám ướm hỏi con gái người ta rồi rủ rê đắp ấm với nhau à ?
Trãi bẽn lẽn, gượng đáp :
- Chắc tại trời bên ngoài lạnh quá...
Xuyến chép miệng :
- Thế bên trong thì sao ? Cái lạnh bên trong đấy chàng ạ !
Nhìn Trãi tần ngần, Xuyến nói như than :
- Có một thân một mình, lạnh lẽo lắm...
Trãi buột miệng :
- Biết thế thì nàng ở lại, đừng bỏ ta mà đi.
Xuyến lại cười, dịu dàng :
- Nhưng em không ở đây được, chàng ơi ! Chàng đi với em vậy...
Dứt lời, Xuyến kéo Trãi. Cả hai vùn vụt biến vào sương đêm trắng đục,
gió vù vù thổi ngược bên tai. Trời sáng dần, nhưng là thứ ánh sáng chiều
tà. Ðến sân một cái đình, trai gái ở đấy chen chúc nhau cười nói. Ðúng
lúc nắng tắt, tiên chỉ làng lụm khụm trong tấm áo nhiễu màu đỏ mào gà
bước ra. Ba tiếng trống thùng thùng nổi lên át hẳn tiếng người. Ðợi cho
trong sân im lặng, cụ tiên chỉ nói ‘‘ khai lễ ‘‘ và rồi tiếng phèng la
từng chặp vang lừng. Lại tiếng cười, tiếng gọi. Nắm lấy tay Trãi, Xuyến
thì thầm, đừng có lạc mất em. Cả hai đi về rặng ổi cạnh sân đình. Trai
gái từng cặp ngồi dưới gốc cây. Tiếng thủ thỉ. Tiếng rúc rích. Rồi tiếng
rên rỉ. Xuyến ghì Trãi xuống, vít đầu hôn tới tấp lên cổ lên mặt. Trãi
thì thầm, Xuyến nhớ cái đêm ở góc thành Nam không ? Xuyến hổn hển, nhớ
chứ, chàng ơi ! Chẳng phải nhớ kiếp trước mà ngay cả kiếp này, rồi cả
kiếp sau nữa. Trãi lần tay giứt giải yếm. Xuyến kêu, nhanh lên, kẻo sáng
mất. Trãi thấy sinh lực mình ứ ra như nhựa cây buổi xuân về. Xuyến kêu,
nữa, nữa đi. Giời ơi, em chết mất. Tiếng kêu làm Trãi tê điếng, người
nhịp xuống nhấp nhô tựa thuyền gặp sóng.
Giời ơi là giời, em chết mất...
Nghe tiếng kêu, Trãi hiểu rằng chết được trong niềm hoan lạc là hạnh
phúc, vô cùng hạnh phúc. Thứ hạnh phúc đó không cần đến vật chất làm
khung chống. Thì như thế, xá chi xác thân. Sau niềm hoan lạc sự sống chỉ
có thể là cái trống không. Chết mất đâm ra thành cách duy nhất để phủ
định cái khoảng trống không kinh hồn đó.
Trãi bừng tỉnh. Ngọn đèn
mắt mèo vẫn xanh. Củi ngo hóa than đang nhấp nháy lụi dần. Chàng định
thần, cố nhớ lại. Rồi chàng gọi, Xuyến ơi ! Không, không có một ai. Vẫn
chỉ tiếng mưa rơi rả rích. Tiếng côn trùng rỉ rả. Bên cửa sổ, đàn đom
đóm bay ngang để lại một vệt lân tinh run rẩy trong gió. Trãi vặn to
ngọn đèn dầu, ra cài tấm liếp chặn cửa. Khi vào, chàng mài mực, chép lại
câu thơ trong giấc mơ. Viết đến câu cuối, Cả lòng mượn đắp ấm hơi cùng,
Trãi bùi ngùi tiếc nhớ. Chàng ao ước làm sao bây giờ mới là lúc chàng
đang mơ. Còn cái thực, là với Xuyến, ở cái đình làng nọ, trong tiếng gái
trai gọi nhau của một thiên đường vỡ ra như bọt nước .
Tiếng phèng
báo động đầu thôn Thượng bỗng chợt rối rít khua lên vào giờ Mùi, tháng
Chạp, sau ngày trăng tròn. Phi Bảo tay đang bế Vàng Anh. Vội bỏ con
xuống, Bảo nhẩy phắt lên ngựa ruổi nước đại. Lên đến lưng chừng đồi chè,
Bảo trông thấy đám quan quân nhà Minh đã cặp được một chục chiếc thuyền
cái vào bờ sông Lam. Nhìn về hướng Lư Sơn, con đường độc đạo cũng thấp
thoáng bóng người.
Bảo vừa phi ngựa xuống đồi, vừa lẩm nhẩm tính
toán. Cứ một chục thuyền cái, chúng đã có thể vận chuyển từ hai đến ba
trăm lính. Thêm vào đường bộ, tổng cộng lại ước ra đến năm bảy trăm, tức
là chúng đông gấp mười đội tự vệ của trại chè. Thế thì đánh chặn, lừa
đốt thuyền, cướp thời gian để rút đi, tản người vào miệt rừng phía bắc.
Bảo về đến sân trại chính thì đám tự vệ đã nai nịt sẵn sàng. Cách phòng
thủ dân trại đã nghĩ sẵn, nên việc điều động không có gì khó khăn. Bảo
lấy hai mươi tráng đinh, sắp đặt gùi lửa, dầu đốt và diêm sinh rồi tự
mình dẫn họ vượt sông Lam, đi vòng lại tập kích vào đội thuyền giặc. Hai
khắc sau, giặc bắt đầu xông vào. Toán tự vệ ở hai nút chặn chốâng trả
kịch liệt, tiếng tên tẩm độc rít lên xé không trung giữa tiếng la thét,
tiếng rú, tiếng gọi nhau ơi ới.
Ðào Nương là người chỉ huy việc tản
dân xuống thôn Hạ rồi tất cả rút vào rừng. Dân trại tiếc của, gồng gánh
chăn màn thúng mủng nồi niêu. Sợ nên cứ quíu lại, họ quơ bên nọ, quào
bên kia, la khóc như vỡ chợ. Không ngờ đến tình huống này, Ðào Nương
ngẩn người ra rồi mím miệng tự tay rưới dầu đốt nhà mình. Nàng quát :
- Bớ bà con, mạng không giữ được thì mang theo được gì ? Bỏ lại hết. Chỉ mang chăn mùng và dao, rựa. Thế thôi !
Dặn đám con gái lên đường đi trước, Ðào Nương chặt một đẵn tre đực,
thúc giục mọi người. Với những kẻ tiếc của dùng dằng, nàng thẳng tay
quật, mắt mọng đỏ, miệng kêu :
- Ta đánh mày còn hơn để giặc giết mày !
Ðám cháy trong thôn Thượng có một tác động bất ngờ. Khi thấy khói bốc
lên, Phi Bảo đang vượt sông Lam khựng lại sợ thôn bị giặc tập kích. Ngẫm
nghĩ, Bảo ra lệnh cho đám tráng đinh quay lại không đi đốt thuyền giặc
nữa. Hai toán tự vệ cũng hoảng hốt cho người chạy về thôn, xuống tinh
thần nên sức chống trả không cương mãnh như lúc đầu. Tuy vậy, tên nỏ có
tẩm độc vẫn chặn được bước tiến của giặc. Chúng hò hét nhưng không dám
liều mạng xông lên.
Ðến cuối giờ Thân, lớp phòng thủ đường bộ phải
rút về tuyến thứ hai. Bảo ra sức hò hét, bảo tráng đinh có chắc mới bắn
vì lượng tên nỏ đã vơi. Lúc đó, Ðào Nương ở đâu hiện ra. Bảo quát :
- Nhà nó lo việc di tản cơ mà. Ði, đi...
Ðào Nương cười, bình tĩnh đáp :
- Dân thôn Hạ cũng đã đi hết rồi... Bây giờ em thuộc đoạn hậu, thì ở đây chứ còn đi đâu nữa !
- Sao lại đốt nhà !
- Không đốt, người ta tiếc của không đi. Mà giặc vào, mình không đốt,
nó cũng lấy, cũng đốt. Nàng lại cười, rồi cất giọng, hát to :
Trời chưa phong quang
Giặc Ngô vào, trời chưa phong quang...
Ðám tráng đinh phòng thủ lối đường thủy cũng vừa rút về. Họ nhịp tay
hát theo. Tiếng hát chống giặc vang lừng lên khiến giặc ngẩn ngơ không
dám tiến. Bảo lườm vợ, mắng yêu :
- Nhà nó đến hay. Lúc phải chạy thì lại đến.
- Thì em lại quay đầu chạy trước nhé.
Nói xong, Ðào Nương nhìn Trãi, thưa :
- Bây giờ, xin bác đi với em...
Vẫy tay gọi tráng đinh cáng theo những người bị thương, Ðào Nương đi
đến đâu châm lửa đến đó, miệng lẩm bẩm, chúng bay muốn đốt tao cũng
chẳng cho. Những bó chè năm nay đã sấy khô bốc cháy, mùi khét lẹt thốc
vào mũi ngột ngạt. Trãi nhìn cô em dâu, lòng bỗng vô vàn cảm phục. Ðúng
là giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh. Chàng bây giờ tin như đinh đóng cột
rằng dẫu qua một nghìn năm Bắc thuộc, gia tộc con dân Ðại Việt vẫn chưa
biến thành phụ hệ như ở Trung Hoa, nơi người phụ nữ bị đè bẹp dưới sự
thống trị của tam tòng tứ đức. Chợt nhớ ra tập Nam Dao chí, Trãi vội vã
chạy vào trái nhà nơi chàng cư ngự. Bấy giờ, ngoài tro than, chỉ còn lại
ba hòn đá chụm đầu vào nhau làm bếp.
Ông ơi, trời tối rồi. Chỉ có lửa. Lửa cháy...
Ông ngửi thấy... Nó cháy ở đâu ?
Con không biết !
Bây giờ, con quay về phía cuối ngạn sông cho ông ?
Chỗ nào là cuối ngạn ?
Thò tay xuống nước. Nước xuôi về đâu thì đó là cuối ngạn.
Con biết rồi, phía này là cuối ngạn. Con quay đây...
Quay chưa ? Thế bên phải hay bên trái ?
Bên nào là bên phải, bên nào là bên trái ?
Bên tay cầm đũa là phải.
_ ...
Lửa bên tay cầm đũa hay tay cầm bát ?
Cầm bát !
Thế là lửa cháy làng ta rồi... Lửa có to không ?
Con thấy cả ngọn...
_ ...
Ai đốt hả ông ?
Ai đốt thì cũng là giặc đốt...
Bây giờ đi đâu ? Trời tối đen. Con sợ...
Giá chỉ mình ông, thì ông ngồi xuống đây ông đợi. Ðợi tất cả... Ðợi xem trời có mắt không ?
_ ...
Nhưng ông con mình phải đi. Con còn trẻ dại. Bây giờ, cứ phía đầu ngạn mà đi...
Ông đưa tay con nắm...
Ði ngược chiều nước chảy, đừng có nhầm...
Ông bước nhé...
_ ...
Ông có nghe thấy gì không ? Tiếng vượn hú. Tiếng sói tru...
Có. Chúng còn xa mình... Nhưng cái đáng sợ không phải là vượn là sói...
Là gì...
Là người. Thế mới khổ !
Con không hiểu...
Con đừng hiểu vội... Cứ đi đi, ngược nước mà đi.
Ði mãi, đi đến đâu ông ơi ?
Chỗ đến, ông không biết. Nhưng cứ đi, đi thì xa cái nơi ông con mình không ở được...
Sao mình không ở được, hở ông ? Con mệt lắm. Con chỉ muốn ngủ ? Mẹ con đâu ? Các chị con đâu ?
Ta phải tìm họ. Phải đi con ạ... Tai ông vẫn nghe tiếng nước róc rách.
Con đừng xa bờ, cứ men nó mà đi... Bỏ cội nguồn là mất hết phương hướng,
con ạ !
_ ...
Con còn thức không ? Phải mở mắt ra mà định hướng.
_ ...
Con ơi, hay là con hát lên cho tỉnh ngủ ?
_ ...
Ông hát nhé, ‘‘ Trèo lên quán dốc, ngồi gốc cây rừng, ( ôi à ) ta ngồi gốc cây rừng... ‘‘ con hát theo ông...
_ ...
Vàng Anh, Vàng Anh. Tỉnh dậy. Con đi như đi trong một cơn mộng du. Con ơi, ông không còn nghe tiếng nước...
- ...
Vàng Anh, Vàng Anh. Tỉnh dậy. Con ơi, ông không biết con đang bước về
đâu ? Còn ông, ông đã lòa rồi. Ông chỉ con nghe được. Ông không nghe
thấy tiếng nước, ta đang lìa bỏ cội nguồn...
_ ...
Ông lại hát nhé...
_ ...
Tình bằng có cái trống cơm, khen ai khéo vỗ ( ối ) bông mà nên bông.
Một đoàn ( tang tình ) con gái ối mấy lội ( lội ) sông, ối ( mới a ) đi
tìm...
Thình lình, tiếng bật hồng rồi cả chục ngọn đuốc soi lên. Một tên giặc quát, tiếng trọ trẹ :
- Ðây rồi. Một thằng già điên. Và một con bé con...
Ðào ông giơ chiếc đàn độc huyền lên cao, hăm he :
- Tao đánh bỏ mẹ chúng mày...
Bọn giặc thấy cảnh bật cười, hộc lên rồi từng bước sấn lại. Ðào ông hét :
- Vàng Anh. Hát lên con. Hát lên để đuổi chúng nó đi...
Lúc đó, Vàng Anh bừng mắt. Nó nghe Ðào lão, giọng bí bô cất lên :
- Ấy mấy lội ( lội ) sông. Ấy mấy ( ai ) mà đi tìm. Ði tìm ( tìm ) ai... Ði tìm, tìm ai...
Hai ngày sau khi quân Minh bỏ đi, hàng dân trại chè lại lục đục kéo
nhau về. Thôn Thượng và thôn Hạ nay hoang tàn. Kèo cột cháy dở ngu ngơ
xiêu vẹo. Gạch ngói đổ nát tứ tung. Tro than bộn bề bám vào mặt đất nhão
nhoẹt dưới mưa dầm. Dăm con chó ve vẩy đuôi thấy người về, không sủa mà
chỉ kêu lên hinh hích.
Người ta bổ đi tìm những người thất lạc.
Tính sổ, ngoài hai người chết trận, có mười bảy tráng đinh bị thương. Và
bốn cụ già chết cóng trong rừng. Còn lại, cả chục người không thấy tăm
tích, trong đó có Ðào lão và con bé Vàng Anh. Cả nhà Phi Bảo chia nhau,
mỗi người đi về một phương. Xưa, Trãi hay đi câu với Ðào lão và Vàng
Anh. Chàng men bờ sông Lam đến chỗ thường thả câu nhìn quanh quất. Không
thấy bóng dáng ai, Trãi thả bước ngược dòng đi lên. Trong lòng sông,
nước xuôi xuống uốn lượn, có chỗ đập vào đá nổi bọt trắng xóa, cuốn đi
những xác lá mục chập chờ chìm trôi tăm tích.
Chàng nhìn xuống lối
đi đất còn ướt, thấy dăm dấu chân. Ði thêm, cây mang những vết chém,
cành rơi nằm ngang dọc. Trãi dấn bước, lòng hồi hộp, linh tính báo cho
chàng điềm chẳng lành. Chàng vạch lá, rẽ cây, mắt chăm chú nhìn trừng
trừng. Một lúc sau, Trãi đến một bờ đá đâm ra sông. Trãi đến gần. Một
búi tóc bạc dựa vào hốc, mặt hướng ra ngoài. Chạy vội lại, Trãi nhận ra
Ðào lão. Ðầu ông cụ ngoẹo xuống, vạt áo trước ngực máu vấy thâm đen. Chỗ
dao đâm, bọn giặc Ngô lại nhét cái cán cây đàn độc huyền đã bị đập nát
bấy vào. Trãi cúi xuống. Miệng Ðào lão móm mém mở toác ra như kêu như
gào trước khi chết. Cặp mắt lòa nay chỉ còn một lớp gân mỡ trắng hếu vô
hồn trợn trừng trừng. Một đám kiến bò thành hàng trên mặt lão nay cứng
lạnh như gỗ, thản nhiên chui vào miệng, vào mũi, vào lỗ tai. Chúng lúc
nhúc bu quanh cái cán đàn, tiếp tục đục khoét vết thương chí tử. Trãi
bật dậy. Chàng muốn kêu, nhưng cổ tức lại, thanh âm kẹt cứng yết hầu.
Vàng Anh đâu ? Chàng nhảy bổ sang bên cạnh. Rồi rúc vào bụi. Vẫn không.
Chàng lại sấn tới. Trước mặt là một khoảnh đất thưa cây. Vẫn không. Trãi
lại lao lên, cơn sợ hãi khiến chân chàng tê cứng.
Ở bìa rừng, Vàng Anh chơ vơ nằm đó.
Con bé trần truồng, phần hạ thể be bét máu đã đông đặc. Mắt nó mở to,
nét kinh hoảng nguyên vẹn, hai tay cào bấm xuống bụi cỏ bị đạp nhàu.
Vàng Anh ơi, hỡi Vàng Anh ! Trãi thét lên ‘‘ Giời ơi là giời ! Giời có
mắt không hả giời ! ’’.
Ðó là lần đầu Trãi nói ra lời sau một năm á
khẩu. Tiếng thét của Trãi vọng vào vách xuyên qua vực bay theo gió lạnh
một mùa đông khắc nghiệt. Gục mặt xuống đất, Trãi cứ thét gào cho đến
khi dân trại chè chạy ùa lại.
Ðào Nương nhìn con rồi ngất đi. Phi
Bảo cởi áo quấn lấy xác Vàng Anh bế lên, nước mắt nhòa nhoẹt trên mặt
nhưng mím môi không nói một câu. Xác Ðào lão đặt trên một cái cáng, hai
người khênh hai đầu, lầm lũi bước.
Hai ngày sau khi chôn cất những kẻ tử vong, dân trại chè họp nhau lại. Bảo nói :
- Cơ sự này, ai ở lại cứ ở mà làm chè. Tôi phải đi !
Khi có người hỏi đi đâu thì Bảo trỏ tay về phí núi Lam. Hầu hết đám
tráng đinh theo Bảo vào Lam Sơn tụ nghĩa. Ðêm hôm đó, Bảo hỏi Trãi :
- Anh có đi không ?
- Chú đi trước đi. Rồi sẽ gặp.
Mặt Trãi nay như thép nguội, hai con mắt lại lấy lại tất cả nét tinh
anh ngày trước. Trãi mang nghiên bút vào mộ Vàng Anh mới đắp, căng lều ở
mươi bữa, ngày ngày gò người ra viết. Lần này, sách Bình Ngô thảo bằng
chữ Nôm, không điển cố, không chữ nghĩa cầu kỳ. Sách viết rất đơn giản,
câu chữ mạnh lạc. Bởi mọi sự thật đều đơn giản đến hiển nhiên.
Viết
xong Bình Ngô sách, Trãi nấu mật rồi chọn cả trăm chiếc lá rừng loại to
bản. Bỏ hai ngày trời, chàng lại cắm cúi chấm mật viết lên lá.Viết xong
chàng mang đống lá đến để cạnh một tổ kiến đất.
Một đêm trước khi
lên đường, Trãi ngồi thắp hương trên mộ Vàng Anh. Chàng khấn ‘‘ đuổi
giặc rồi, bác lại chép lại Nam Dao chí cho con. Cái chết của con không
vô ích đâu, Vàng Anh ơi ! Nó dạy cho bác vế thứ hai của việc lấy đạo
nghĩa chống hung tàn. Ðó là mang trí, nhân thay cường bạo. Vì chỉ có thế
thì con người mới tránh được sự hủy diệt của chính con người trong mai
hậu ’’.
Thình lình một con chim cánh chuốt màu lửa từ chân mộ bay
vút lên. Cánh chim thành một vì sao tít tắp, muôn đời nhấp nháy với gọi
tương lai trong khoảng trời đất vô cùng của những con người khốn khổ.

Đất Cao
Nhâm dần ( 1422 ), Minh Vĩnh Lạc năm thứ 20
Tiết Lập Xuân.
Nhìn từ sơn trại Hoàng Nghiêu, dòng sông Mã lóng lánh như dát kim cương
lượn vòng ôm lấy giải núi xanh lơ xa tít. Nghĩa quân đóng ở Mường Thôi
đã hơn hai năm, thỉnh thoảng mới đụng độ với quân Minh, dân đóng thuế
ít, lại đỡ phu dịch nên hết lòng ủng hộ. Tin Lý Bân vừa chết ở Ðông Quan
đã truyền đi khắp nơi. Ở hai châu Hoan, Ái, nghĩa quân vùng nào cũng
phấn chấn. Khi đó, Trãi đã trở về với Hãn và Chích, trầm tĩnh nói :
- Tướng địch chết là tướng tài mới đáng mừng. Lý Bân không phải là hạng người này !
Hãn ngẫm nghĩ một lát rồi bảo :
- Thời cơ thì chưa tới, nhưng cũng nên lợi dụng lúc giặc còn phải chấn
chỉnh, ta mang ít quân về chặn giữa Hoan châu và Diễn châu...
Hai
ngày sau, Hãn mang bốn trăm nghĩa quân và hai thớt voi thọc vào phía tây
rồi suôi nam. Trãi và Chích ở lại thì có tin của Lê Lợi. Người mang tin
là Nguyễn Xí và Hà Trí Viễn. Gặp Trãi, Viễn mừng chảy nước mắt, kêu lên
:
- Thế là bác nói được rồi ! Gớm, xưa em cứ lo... Bây giờ cóc mở miệng nhé !
Nguyễn Xí lúc đó đưa cho Trãi một chiếc lá. Soi lên sáng, Trãi đọc Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần . Xí nói :
- Ðại đầu mục chúng tôi mời ông rời gót ngọc về Lỗi Giang.
Trãi nhịn cười, vui đáp :
- Xin vâng, nhưng tôi chân trần dép cỏ thôi, có đâu ngọc ngà gì...
Xí đỏ mặt. Viễn hề hề cười :
- Bác sửa soạn, mai ta đi !
Ba người lên đường lúc tiếng gà đầu ô cất lên báo sáng. Dân cầy khi đó
đã lục tục kéo nhau ra đồng, xẻng cuốc trên vai, chuyện trò rôm rả. Năm
nay được mùa, mưa gió chiều lòng người thôi không giở cơn hành hạ như
năm ngoái. Men những cánh đồng xanh non mút mắt, Trãi vui miệng hỏi han
đủ chuyện nhưng chỉ có Viễn đáp lời. Thế là Viễn lại lấy thêm một bà và
đẻ thêm được một đứa. Viễn ề à ‘‘…con gái mới cay chứ, em mong sang năm
thì gặt được hai đứa con trai ’’. Trãi hiểu ít là hai bà vợ Viễn đang
chửa, đùa ‘‘ Chú cố thêm, có thể lên đến ba đứa đấy...’’. Viễn trợn mắt
‘‘…thì cố vẫn cố, nhưng Trời cho mới được, bác ạ ! ’’.
Vừa qua khỏi địa phận Lư Sơn, Lê Lợi đã từ Lỗi Giang đích thân ra tiếp Trãi. Cúi đầu, Lợi vái :
- Cố nhân ! Xa mặt thế là bốn năm nay rồi, trông người vẫn như xưa.
Trãi vuốt búi tóc rồi nghiêng mình vái lại :
- Thưa đại nhân, tóc tôi nay mười phần đã bạc đến bốn rồi... chỉ non sông là còn đó !
Hiểu ý Trãi, Lợi thở dài :
- ...và chưa thay đổi gì cả !
Bất thình lình, Lợi xụp xuống :
- Xin hãy giúp Lợi này chỉ là kẻ áo vải tài thô trí thiển...
Trãi vội nâng Lợi lên :
- Chữ đã viết ra rành rành trên lá cây. Như vậy, Trãi về đây cũng chỉ
muốn cùng ngài đuổi giặc mà thôi. Ðó là thiên ý, Trãi xin tuân mệnh.
Buổi tối hôm đó, Trãi lại gặp lại Phi Bảo. Chàng nay tự xưng tên là
Chiến và lấy họ Lê, ý một lòng phò Lợi đánh giặc. Nhìn cung cách Trãi,
Bảo không nhận ra anh mình. Mấy tháng trước ở trại chè cứ ngày ngày chép
những câu ca dao tục ngữ, Trãi nhìn lúc nào cũng dịu dàng, dấu vết ngậm
ngùi đọng trên khóe mắt. Nay, khác hẳn. Nét dịu dàng thay bằng trầm
tĩnh, và ánh ngậm ngùi bằng một sự cương nghị lạ lùng. Khi hàng dân nhặt
được những chiếc lá kiến khoét thủng hàng chữ báo mệnh trời mang lên
Lam Sơn, Bảo chắc bụng rồi sẽ gặp Trãi. Vì thế, không một chút ngạc
nhiên, chàng chỉ hỏi :
- Bác Hãn nghĩ thế nào ?
Trãi trầm ngâm :
- Còn nghĩ thế nào nữa ! Sau Trùng Quang, rồi Giản Ðịnh, lòng người
chẳng còn mấy ai tưởng đến nhà Trần. Bảo rằng Lợi vi quân, là nhằm lôi
cuốn những kẻ đến giúp Lợi, đồng thời giữ vững lòng tin của hàng dân vào
việc khôi phục...
- Lợi có hiểu như thế không ? Bảo hỏi.
-
Hiện thế giặc lại mạnh lên. Chúng đã cấu kết với quân Lão Qua, Lợi hết
chỗ dựa, mất hậu cứ an toàn, biết cái chuyện làm vua trước mắt chỉ là
chuyện nói hão, còn chông gai lắm. Nhưng đám võ biền theo Lợi thì họ
nghĩ gì ?
Bảo bật cười rồi chậm rãi :
- Họ tin là thế thật. Và chưa gì họ đã xin Lợi xuất quân.
Trãi cũng cười. Bảo tiếp :
- May quá, Lợi không cho. Lợi bảo phải chờ quân sư. Anh có biết quân sư là ai không ?
Một góc nhà sàn dùng làm thư phòng, trên phản để một chồng sách. Sát
vách, giá gươm treo ba thanh, dài ngắn khác nhau. Khi Trãi bước vào, Lợi
đứng dậy tươi cười mời ngồi rồi đưa mắt ra hiệu. Lê Văn Linh vái chào
Trãi rồi lui ra. Lợi nhắp một ngụm trà, tay đưa mời Trãi dùng trầu,
miệng nói :
- Trầu là trầu nguồn, thưa ngài...
Trãi lắc đầu cám ơn. Vừa nhai trầu, Lợi vừa nói :
- ý ngài đã giúp Lợi, xin vô vàn cảm tạ. Lam Sơn tụ nghĩa, anh hùng đến
đây số lớn là những tay đảm lượng vũ dũng. Lam Sơn cần bây giờ là cần
người trông rộng nhìn xa. Nếu ông không quản, Lợi này xin vái ông ba vái
làm quân sư...
Trãi nhíu mày. Thì ra khi biết Trãi đã cùng Viễn và
Xí lên đường, Lợi đã tung hai chữ quân sư ra dọ ý đám người hội thề
Lũng Nhai thuở trước. Thấy Trãi ngần ngại, Lợi đứng dậy nhưng Trãi giơ
tay ngăn, chậm rãi :
- Ðại nhân hiểu rõ sự thế. Xưa Khổng Minh làm
quân sư cho Lưu Hán Ðế là lúc thiên hạ chia ba, mỗi người một cõi. Ðại
Việt bây giờ khác hẳn. Cho đến nay, một mảnh đất trong tay ta chưa có.
Nghĩa quân ở Thanh - Nghệ còn Hãn - Chích, trên Mường La còn Xảo - Tham,
thế vẫn rời rạc, hành sự chưa hợp nhất. Thế mà đem Trãi này ví với Gia
Cát thì chỉ để thiên hạ chê cười cho đến muôn thu nên Trãi quyết là
không nhận...
Lợi chột dạ, bần thần :
- Và Lợi ngu dốt này mà bì với Lưu Bị thì Lợi cũng chẳng dám...
Trãi đứng dậy ra trước giá gươm. Chàng rút một thanh ra khỏi vỏ, ngắm nghía, buột miệng khen kiếm là kiếm quí. Lợi vội vàng :
- Nếu ngài thích, Lợi xin tặng...
Mỉm cười, Trãi hỏi :
- Cái cán kiếm này có dễ tháo ra không ?
Không hiểu ý Trãi, Lợi lẳng lặng gật đầu rồi tự mình xoay cán, lấy ra. Hai tay nâng lưỡi kiếm ngang mặt, Trãi nói :
- Ngài giữ lấy cán nhưng ném lưỡi kiếm này vào chỗ cạn trên sông Lam.
Sau, ngài bảo nằm mơ thấy thần nhân ban cho cây kiếm Thuận Thiên rồi
truyền cho nghĩa quân đi mò. Lưỡi kiếm nào cắm vừa vào cán là Thuận
Thiên. Có cây kiếm, ngài truyền hịch xưng Vương. Công việc đầu của Trãi
là mang nghĩa quân của Hãn và Chích sát nhập vào nghĩa quân Lam Sơn. Về
phần Xảo - Tham, xin ngài đợi cho đến đầu hè, Trãi sẽ thu về một mối.
Nhìn Lợi mắt sáng lên, Trãi móc trong bụng ra cuốn Bình Ngô, hai tay đưa :
- Sách này dâng ngài. Nếu ta cùng nhau nhất tâm nhất trí thì sai chép
ra rồi trao lại cho hàng quân. Chỉ lúc đó, Trãi mới xin làm Hành Khiển,
nghĩa làm những việc được sai, thế thôi...
Hai tay nhận sách, Lợi cúi đầu cảm tạ. Chỉ sáng hôm sau, Lợi đã đến gặp Trãi, nói :
- Trời đã khiến ngài về với Lợi. Sách Bình Ngô sẽ sao ra năm mươi bản ngay ngày hôm nay.
Nói xong, Lợi xụp xuống lạy. Trãi vội đỡ Lợi lên, nhìn vào mắt, miệng nói :
- Xin chớ làm thế. Ðọc sách, ngài thấy chỗ cốt tử ở đâu ?
- Lấy đạo nghĩa, chống hung tàn. Mang trí, nhân thay cường bạo.
- Ngài một lòng với Trãi ?
Lợi cầm chén nước đổ xuống đất rồi thề.
Trãi bấy giờ nói thêm :
- Chuyện cây kiếm thần là cực chẳng đã. Bây giờ Trãi này xin với ngài thêm một việc.
Lợi chưa biết là việc gì, thận trọng nhìn Trãi, im lặng.
-...là một ngày nào đuổi xong giặc, xin ngài trả lại cây kiếm Thuận
Thiên cho trời đất. Thời bình, là thời văn trị thì giữ kiếm làm gì !
Lúc đó, Lợi thở ra, vừa cười vừa nói :
- Xin ngài cứ yên lòng. Lợi đâu chỉ là kẻ vũ phu chỉ biết có đao có kiếm.
Lê Văn Linh điều động một số người biết chữ đọc Bình Ngô sách rồi giảng
lại cho đám nghĩa sĩ Lam Sơn. Bọn Ðinh Lễ, Nguyễn Xí, Lê Hào, Lê Sát...
lại bụm miệng cười với nhau hệt như ngày nào trên núi bốn năm về trước.
Duy có cái sách lược vây thành rồi chặn đánh tẻ đám quân Minh đến cứu
viện là họ đồng lòng, nhưng Lễ vẫn bảo ‘‘ Vây mà hạ được thì cứ hạ, việc
chó gì mà chỉ cứ vây không thôi ! Mấy anh trói gà không chặt đời nào
cũng vậy, cứ thấy máu là hãi run lên rồi ! ’’. Sát lại nhắc ‘‘ Cái
chuyện tâm công như nước lã uống mà say ấy mà. Tin khối được, ai tin ?
Ðúng là đi bán thóc giống... ’’.
Lợi gọi đám mười tám người hội thề
Lũng Nhai lại ngày mồng bốn tháng bảy sau khi nhận được thư phúc đáp
của Chích. Thay mặt Hãn, Chích thuận việc sát nhập với quân Lam Sơn,
viết ‘‘...Nghệ đất rộng, người đông, là nơi hiểm yếu... Nay ta trước hãy
đánh lấy Trà Long, chiếm giữ Nghệ làm chỗ đất dừng chân, rồi dựa vào
tài lực nhân lực đất ấy mà quay ra đánh Ðông Ðô thì có thể tính việc dẹp
yên thiên hạ ’’. Lợi hỏi, Trãi chỉ đáp ‘‘... trù hoạch lấy Nghệ thì
phải tạo sức ép từ phía Nam vào. Hiện Trần Nguyên Hãn đã kéo quân phục
sẵn rồi. Lấy xong Nghệ, lại ra mà thu Tân Bình, Thuận Hóa ’’.
Sau khi nghe Lê Lợi nói về tình hình và vai trò của Nguyễn Trãi, bọn võ tướng Lam Sơn nhao nhao hỏi :
- Quân sư và hành khiển khác nhau thế nào ?
Lợi đáp :

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Quyền hạn của bạn:

Bạn không có quyền trả lời bài viết
Chia sẻ
Share

_____