cộng đồng pro forum chia sẻ
sân chơi teen - wed mới của admin - anh em vào phát triển


http://sanchoiteen.info
cộng đồng pro forum chia sẻ
sân chơi teen - wed mới của admin - anh em vào phát triển


http://sanchoiteen.info

Đừng nghĩ rằng bạn đang cô đơn bởi vì có ai đó đang sẵn sàng giơ tay cho bạn nắm. Hãy cùng chia sẻ để vơi đi nỗi buồn và tận hưởng trọn vẹn niềm vui trong cuộc sống này bạn nhé!



mọi ngườ đăng kí thành viên đi

số bài gửi vào diễn đàn số bài gửi vào diễn đàn :
325
:
ngày tham gia diễn đàn ngày tham gia diễn đàn :
10/04/2012
:
sở thick riêng sở thick riêng :
làm forum
:
LỜI MUỐN NÓI LỜI MUỐN NÓI :
thấy diễn đàn hay -thì đăng kí thành viên cùng phát triển nhé
thân : admin_hà
:
admin_hà
admin_hà

admin_hà
Admin

  • Admin
Châu hợp tác chặt chẽ với CIA trong những dự án về bình định nhưng quan hệ của ông với cơ quan này lại căng thẳng, đôi lúc thành xung đột công khai. Trước đây ông đã hợp tác rất tốt với những nhân viên tình báo hoạt động chính trị, những người đã học được ở Lansdale phương pháp đối xử với người Việt Nam, những con người kiên nhẫn và dễ tính, biết cách đạt tới mục tiêu của mình một cách gián tiếp. Ted Shackley không phải là một người theo kiểu của Lansdale, trong thực tế, là một người ngược hẳn lại. Dù cho người ta có phê bình Shackley như thế nào, ông vẫn là một sĩ quan tình báo loại một, khả năng làm việc rất tốt. Ông ăn nói ngắn gọn, rõ ràng, đi thẳng vào đề. Nói có sách mách có chứng. Ông nhanh nhẹn đến nỗi những con người vốn thông minh, lanh lợi làm việc với ông xem vẫn chậm chạp, lù đù. Bởi vì ông cao lớn, da tái, mờ tóc bù xù, đeo kiếng gọng sừng, thích mặc áo lùng thùng nên những người dưới quyền đặt cho ông biệt danh là “con ma tóc vàng” Shackley, bốn mươi hai tuổi và tốt nghiệp trường Đại học Maryland, đã bắt đầu chấn chỉnh chi nhánh CIA ở đây ngay sau khi ông đến nhận chức năm 1969. Với con số tám trăm nhân viên, chi nhánh CIA ở đây là chi nhánh đông nhân viên nhất trên thế giới.
“Mọi người ở chi nhánh CIA ở đây đều nể sợ Ted Shackley vì vừa qua, ông chính là người đã chỉ đạo cuộc chiến tranh bí mật ở Lào”, Frank Snepp, một nhà phân tích của CIA đã nói. “Trước đó, ông lại là người lãnh đạo chi nhánh CIA ở Miami trong những ngày cao điềm chống Castro, và sau đó ông phục vụ ở Đức. Ai cũng cho rằng ông là một sĩ quan tình báo tuyệt hảo. Ông lại tập hợp quanh mình toàn những người có năng lực, tất cả đều rất náo động, nếu ông là người trẻ và là người của CIA thì ông sẽ rất thích họ”.
Frank Snepp không phải là người duy nhất đã nhanh chóng nhận ra rằng Ted Shackley rất nghiêm túc trong việc tiến thân. Có dư luận cho rằng Shackley đang trên đường tiến tới chức vụ cao nhất trong ngành, Giám đốc Cục tình báo trung ương. Shackley hình như chỉ chú ý tới những việc sắp xảy ra. Hiện nay, ông đang bị vướng vào một chuyện không may, liên quan đến việc thủ tiêu một thông dịch viên người Việt Nam làm cho các Lực lượng Đặc biệt của Hoa Kỳ.
Các Lực lượng Đặc biệt thường phái các đội biệt kích vượt biên giới Nam Việt Nam, thâm nhập lãnh thổ Campuchia, và trong một cuộc thâm nhập vào một doanh trại của quân Bắc Việt, họ đã lấy được một bức ảnh, trong đó họ nhận ra người thông dịch Việt Nam làm tại Bộ chỉ huy của họ đang nói chuyện với một sĩ quan Bắc Việt Nam. Một cuộc thí nghiệm để phát hiện nói dối hình như đã xác nhận rằng người thông dịch này - tên là Thái Khắc Chuyên - là mộtgián điệp hai mang. Các Lực lượng Đặc biệt đã bắn vào đầu Chuyên, buộc đá vào xác anh ta và ném xuống biển. Việc làm này sau đó đã bị phát hiện và một toà án quân sư đang khởi sự cho điều tra.
Để bào chữa cho hành động của mình, các Lực lượng Đặc biệt nói rằng họ đã xin ý kiến sĩ quan liên lạc của CIA về cách xử trí với Chuyên và được bảo cho biết là phải kết liễu với tổn thất lớn nhất - đó là tiếng hoa mỹ họ quen nói với nhau, có nghĩa là “giết nó đi”. Một luật sư được mời từ New York đến để cãi cho lính Mũ Nồi Xanh, không khiêm tốn lắm trong việc tự quảng cáo, đã tung ra một chiến dịch đổ vấy trách nhiệm cho CIA. Ông ta dẫn lời viên sĩ quan liên lạc của CIA nói rằng Ted Shackley đã “có trách nhiệm trong hai trăm năm mươi vụ ám sát chính trị ở Lào rồi, bây giờ thêm một vụ thì nhằm nhò gì”.
Trong vụ này, chỉ có một sự kiện duy nhất được xác nhận đó là cái chết của người thông dịch viên Việt Nam. Cục tình báo trung ương trước đây đã từng chỉ huy các Lực lượng Đặc biệt và hiện nay vẫn còn giúp đỡ họ về hậu cần. trong khuôn khổ của cuộc chiến tranh tâm lý, và với các sĩ quan liên lạc - nhưng Cục này không còn trách nhiệm chỉ huy nữa. Quyền chi huy đó thuộc về Lực lượng Đặc biệt và thuộc về chính Quân đội Hoa Kỳ. Viên sĩ quan liên lạc của CIA nói gì thì nói, Lực lượng Đặc biệt cũng không buộc phải tuân theo chỉ thị của ông ta và giả thiết là các Lực lượng này đã biết rõ những luật lệ của chiến tranh. Những chuyện này không dính líu gì tới Shackley là một người mới đến cả.
Dù sự thật trong vụ này ra sao, nó cũng gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho chi nhánh của CIA ở đây do phản ứng của vị tư lệnh quân sự, tướng Creighton Abrams. Tướng Abrams rất tức giận các Lực lượng Đặc biệt vì đã làm mất uy tín bộ chỉ huy của ông về nguyên tắc, ông cũng giống như nhiều sĩ quan trong quân đội chính quy, không thích đám Mũ Nồi Xanh lúc nào cung phô trương hình ảnh của mình như là những phần tử ưu tú nhất, kiêu ngạo và ngổ ngáo. Riêng đối với cá nhân tướng Abrams, cái thói hợm hĩnh này lại càng làm cho ông ghét vì bản thân ông cũng được coi là một phần tử ưu tú, khi ông là một sĩ quan chỉ huy xe tăng trong đạo quân của tướng George Patton thời danh trong Chiến Tranh Thế Giới thứ II ở Âu châu. Sĩ quan và binh lính của Patton từng được coi là những phần tử ưu tú nhất trong cuộc chiến này, đó là những con người lấy chiến công thay cho lời nói, chứ đâu như cái đám người nhảy múa chung quanh cái mũ nồi rồi hát những bài ca ngợi chính mình.
Creighton Abrams phản ứng rất mạnh chống lại các Lực lượng Đặc biệt. Triển vọng thăng quan tiến chức đầy hứa hẹn của người chỉ huy đơn vị này coi như bị thủ tiêu. Sau đó, Abrams quay lại trả thù CIA. Ông tách chi nhánh CIA ở đây khỏi bộ chỉ huy quân sự của ông và tìm mọi cách cô lập nó. Hành động của Abrams rất có hại cho Shackley, nếu chỉ nghĩ tới một lý do là Abrams lại được Bunker đánh giá rất cao. Shackley là một nglrời đang lên và có nhiều triển vọng, nhưng vừa mới tới Sài Gòn đã bị hai nhân vật có thế lực ở đây cho ra rìa, mà đó lại là hai người có ảnh hưởng lớn tới tiền đồ của Shackley.
“Vụ này ảnh hưởng xấu không thể tưởng tới các mối quan hệ”, Frank Snepp nói. “Căng thẳng tới mức mà trong các buổi báo cáo tình hình của Abrams cho Bunker, nhiều khi Shackley cũng không được tham dự. Vì thế mà trong năm 1970, Shackley và chi nhánh CIA ở đây đã quyết định là đánh một con đường vòng tới đại sứ Bunker, tranh thủ sự tín nhiệm của ông này để bù lại sự chèn ép của giới quân sư. Một nửa thời gian làm việc của chúng tôi được dành ra để cung cấp cho Shackley những thông tin cần thiết để cải thiện hình ảnh của CIA. Nhiều đêm tôi và Shackley phải thức rất khuya tại nhà ông ta, để viết báo cáo cho ông hoặc để ghi những điều ông nói và viết lại sao cho ông có thể dùng để gây ấn tượng tốt nhất tới đại sứ Bunker”.
Mối quan tâm hàng đầu của đại sứ Bunker là củng cố quyền lực của Nguyễn Văn Thiệu với tư cách là Tổng thống của Nam Việt Nam. Củng cố sự ổn định chính trị của chính phủ Sài Gòn là trung tâm mọi hoạt động của sứ quán suốt mười sáu năm qua, từ năm 1954 khi Ngô Đình Diệm từ chỗ lưu vong trở về nước tới nay, và đã trải qua một thời gian tưởng chừng tuyệt vọng khi Diệm bị lật đổ năm 1963. Với Bunker ở ghế đại sứ, chính phủ Sài Gòn xem ra được ổn định hơn những năm trước.
“Dưới quyền của Shackley, chi nhánh CIA ở đây được chia ra thành hai phân ban - COD và POD - COD là phân ban theo dõi các hoạt động Cộng sản (Communist Operations Division) còn POD là phân ban theo dõi các hoạt động chính trị (Political Operations Division)”, Snepp nói, “Phân ban thứ hai này được tổ chức để theo dõi và tác động tới tình hình chính trị Nam Việt Nam, tìm cách cải thiện bộ mặt của chế độ Thiệu. Dĩ nhiên là họ còn nhiều mục tiêu khác nữa”
Một nhà phân tích khác của CIA là Bill Kohlmann phát biểu đồng tình. “Vâng, đó là mục tiêu quan trọng. Vì Bunker tin rằng Thiệu là hy vọng duy nhất để có được một chính phủ ổn định cho nên ông ủng hộ Thiệu về mọi phương diện. Và ông cho phép Shackley làm những gì có thể làm được để củng cố chế độ Thiệu”
Cơ quan CIA đã theo dõi Châu trong nhiều năm và có đầy đủ hồ sơ về ông. Khi Châu bắt đầu xung đột với Thiệu, Shackley đã yêu cầu những nhà phân tích trong cơ quan của ông lập ra một hồ sơ đầy đủ về Châu để ông báo cáo cho Washington và Sài Gòn
Frank Snepp nói rằng ông đã đọc toàn bộ hồ sơ để trả lời câu hỏi do Shackley nêu ra: “Ông có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy Châu là Cộng sản không?”
Bill Kohlmann lưu ý một điểm: “Người ta không hỏi ông hãy “cân nhắc mọi bằng chứng về mọi mặt và phân tích con người đó xem ông ta có thể là Cộng sản không” mà chỉ hỏi “có bất kỳ bằng chứng nào rằng Châu là Cộng sản không” mà thôi.
Frank Snepp nói thêm: “Tôi sẽ tự bào chữa rằng tôi không phải là người duy nhất làm việc đó mà có tất cả ba hay bốn người gì đó làm việc này. Và nếu người ta hỏi chúng tôi có bằng chứng gì ngược lại về Châu không thì chúng tôi sẽ có câu trả lời. Nhưng người ta không hỏi. Người ta chỉ hỏi rằng chúng ta có bằng chứng nào về quan hệ của Châu với Cộng sản không. Không thể chối cãi rằng Châu đã có quan hệ với ông Hiền, anh của ông ta. Và đó là kết luận mà chúng tôi đã đi đến"
Chú thích:
* Nay là đường Đồng Khởi

Santa Monica 1970
Daniel Ellsberg tìm cách đưa Châu ra khỏi Việt Nam. Ông thu xếp để Công ty RAND, một Công ty ở California, chuyên nghiên cứu các vấn đề chiến lược cho Bộ quốc phòng, nơi ông đang làm việc, để Công ty này mời Châu đến đây công tác như một chuyên viên tham vấn về công tác bình định nông thôn. Nếu Châu có thể rời khỏi Việt Nam thì Châu sẽ thoát khỏi nanh vuốt của Thiệu. Nhưng một lời mời như vậy phải thông qua sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn, chính ở đây đã gặp phải bế tắc. Daniel Ellsberg đã làm quen với Châu năm 1965, khi ông tới Sài Gòn trong cương vị thành viên trong nhóm công tác bình định của Lansdale, và đã trở thành một trong những người bạn Mỹ thân nhất của Châu. Ông tin rằng CIA tìm cách gây khó dễ cho Châu là để trả thù một vụ xung đột trước đây của Châu với cơ quan này về chương trình bình định.
“Châu muốn giữ độc lập trong hoạt động của mình, nhưng đồng thời lại rất tôn trọng cơ quan CIA”, Ellsberg nói “Châu rất sung sướng được CIA tài trợ cho những hoạt động của ông, cái ông muốn là cách đối xử mà những người của Lansdale trước đây đã dành cho ông. “Ông có những ý kiến hay đấy, Châu. Đây, tiền đây. Làm đi". Đó là cách làm của Lansdale mà Châu cho là tốt. Nhưng thái độ của hầu hết người Mỹ lại không phải như vậy, “Dẹp cái kiểu đó đi. Ông nhận tiền của chúng tôi thì ông phải làm theo kiểu chúng tôi”. Lúc đầu Châu không hiểu được điều đó. Và thế là CIA đã bỏ rơi ông ta".
Quan hệ giữa Châu và Ellsberg gần gũi thân mật đến nỗi hai người đều hiểu và chấp nhân khuyết điểm của nhau. “Tôi coi Châu như anh tôi vậy Ellsberg nói “Cho tới khi tôi rời khỏi Việt Nam thì anh và John Paul Vann là hai người bạn thân nhất của tôi trên thế giới. Phần lớn những gì tôi biết được về bình định là tôi học được ở Châu hay Vann - và Vann cũng học được ở Châu. Tuy vậy, tôi thấy Châu vẫn có cái gì đó không thực tế. Anh thích soạn thảo kế hoạch với những đề mục lớn và có một cách đọc sách y như người Mỹ. Anh quá tự hào về bản thân mình, phần nào vị kỷ. Anh muốn có những chương trình của anh. Và anh không thích ai chỉ bảo anh phải làm thế này hay thế khác”.
Châu biết rằng Ellsberg là một người thông minh xuất chúng nhưng nhiều khi cũng cực đoan. Châu biết rằng Ellsberg giờ đây đã quay ra chống chiến tranh cũng nồng nhiệt như trước đây anh ủng hộ chiến tranh. Nhưng Châu không biết rằng lúc đó Ellsberg đang thực hiện một vụ đánh cắp tài liệu bí mật của chính phủ lớn nhất trong lịch sử của Mỹ. Ellsberg lợi dụng địa vị của mình là một nhân viên của Công ty RAND và là một cốvấn của Lầu Năm Góc tiếp cận với một công trình nghiên cứu về sự dính líu của Hoa Kỳ ở Việt Nam ngay từ đầu, đúng vào lúc mà nước này đang mắc vào một sự cam kết không giới hạn trong chiến tranh Việt Nam. Tài liệu nghiên cứu này về sau được gọi là Tài liệu của Lầu Năm Góc, chương trình nghiên cứu này được thực hiện theo yêu cầu của Bộ trưởng quốc phòng Robert McNamara năm 1967. Ông giao trách nhiệm này cho Morton H. Halperin, trợ lý của ông về các vấn đề an ninh quốc tế, ông này lại giao cho trợ lý của ông là Leslie Gelb làm người chủ biên, cầm đầu nhóm biên soạn công trình nghiên cứu lịch sử này. Lúc đầu họ nghĩ rằng công trình này có thể được hoàn thành trong vòng sáu tháng với sáu nhà nghiên cứu thôi, nhưng thực ra nó đã hoàn thành trong vòng mười tám tháng với tất cả là ba mươi sáu nhà nghiên cứu, tập hợp một khối lượng tài liệu đồ sộ, với ba ngàn trang phân tích và lịch sử, và bốn ngàn trang tài liêu mật. Ellsberg làm việc với nhóm này trong một thời gian nhưng ông đau yếu do bịnh viêm gan mắc phải ở Việt Nam và công trình nghiên cứu của ông đã do một người khác viết lại. Ngoài Leslie Gelb ra, không có ai đọc hết toàn bộ công trình nghiên cứu này như Dan Ellsberg, và ông đã mang một bản tài liệu từ Bộ quốc phòng về Công ty RAND. Khi ông đọc hết Tài liệu của Lầu Năm Góc thì ông mới thấy rõ có nhiều điều không ăn khớp, thậm chí mâu thuẫn giữa những gì các quan chức chính phủ Mỹ nói riêng với nhau với những gì họ nói với dân chúng về cuộc chiến tranh Việt Nam - nhiều khi nói láo trắng trợn - Ellsberg tin rằng ông có thể chấm dứt chiến tranh bằng cách công bố tài liệu đó cho công chúng biết đã gây ra làn sóng phẫn nộ trong cả nước.
Daniel Ellsberg là một chuyên gia về môn, nói theo từ ngữ của ông, “đề ra quyết định trong điều kiện không chắc chắn”, vì đó là một môn học rất khó nên người ta có thể nghĩ rằng người chuyên gia về môn đó phải là một vị giáo sư lúc nào cũng đăm chiêu suy nghĩ nhưng thực ra Ellsberg không phải là một người như vậy. Ông sinh ra ngày 7 tháng 4 năm 1931, chiều cao trung bình, mảnh khảnh nhưng chắc chắn, với mái tóc sẫm quăn, xuất thân từ một gia đình Do Thái chuyển sang Thiên Chúa giáo. Luận văn tiến sĩ của ông tại đại học Harvard là luận văn về xác suất chủ quan và hệ luận thống kê - nhan đề Mạo hiểm, Mơ hồ và Quyết định - đã bắt đầu như sau: “Hành động một cách hợp lý thì người ta phải căn cứ vào hậu quả mà đánh giá hành động của mình. Nhưng nếu hậu quả lại không chắc chắn thì phải làm thế nào? Không nghi ngờ gì nữa, con người vẫn phải hành động một cách hợp lý: vấn đề là quyết định xem hợp lý nghĩa là gì”. Môn học này còn gọi là lý thuyết trò chơi. Bởi vì những thông tin mà ông dựa vào đó để đề ra quyết định là rất mơ hồ, thiếu sót, ít ỏi… - nói cách khác là đầy bóng tối - nên việc áp dụng phương pháp luận của ông cũng uổng công vô ích, vì nó sẽ đưa từ bóng tối này tới bóng tối khác mà thôi. Ông đã đi đến một công thức đặc trưng, ít ra thì cũng đặc trưng với những trường hợp của trò chơi, đi đến một giải pháp có thể. Là một chuyên gia về quốc phòng, phần lớn là nghiên cứu về vũ khí hạt nhân, trong thực tế ông là một người có ý kiến riêng của mình, những ý kiến đó thường dựa vào những thông tin thuộc loại hết sức trừu tượng, những ý kiến có thể được chứng minh mà cũng có thể không - nói tóm lại là một người giáo điều hợp lý. Dĩ nhiên là ông có thể tận dụng những khả năng phân tích của mình vào những đề tài khác và đạt được những kết quả tốt. Bất cứ ai chọn một ngành chuyên môn bí hiểm như vậy thì không thể thiếu lòng tự tin. Một ít tự tin ở khả năng của mình là điều không thể thiếu để có được sự tín nhiệm nghề nghiệp.
Trong thực tế, Ellsberg đi vào lĩnh vực này gần như là do may mắn tình cờ. Mẹ ông, chết trong một tai nạn xe hơi lúc ông mười lăm tuổi đã từng hy vọng rằng ông lớn lên sẽ trở thành một nghệ sĩ dương cầm và hồi nhỏ ông đã từng học đàn. Cha ông là một kĩ sư xây dựng, đã từng qua một thời kì khó khăn trong cuộc khủng hoảng kinh tế, đã đưa gia đình từ Chicago đi Spingfield, đi Detroit, ông thường nói với các con rằng con người cầm bản đồ trên tay thì không được dừng lại ở chỗ vẽ bản thiết kế mà phải đến tận hiện trường mà quan sát, mà bắt tay làm việc và biến những tính toán trên giấy thành hiện thực, thành sắt thép. Dan Ellsberg lại chịu ảnh hưởng chính trị của người anh khuynh tả, lại muốn trở thành người tổ chức lao động. Ông nhận được một học bổng vào trường dự bị đại học Michigan, trường này lại xin cho ông một học bổng Pepsi Cola vào học trường đại học Harvard (“ …một sinh viên xuất chúng:.. có xu hướng cho mình hơn người, nhưng không xa lánh mọi người” ) và các bạn đồng học đã bỏ phiếu cho rằng ông là sinh viên tốt nghiệp “có khả năng hơn cả để cống hiến cho tiến bộ nhân loại”. Ở Harvard, môn học của ông là kinh tế học lao động. Nhưng tới năm học cuối cùng thì người hướng dẫn đã yêu cầu ông chuyển qua học về lý thuyết trò chơi để có thể làm một bản luận văn tốt nghiệp khá hơn, Ellsberg nghe theo lời khuyên và đã nhận được chứng chỉ tốt nghiệp, khoá 1952. Các tổ chức công đoàn hình như không hấp dẫn cho lắm nên ông đã bỏ ý định thành một người tổ chức của phong trào lao động. Đồng thời xu hướng chính trị của ông bắt đầu thay đổi Trong khi vẫn là một người cánh tả trong những vấn đề trong nước, ông đã trở thành một người kịch liệt chống cộng trong lĩnh vực đối ngoại. Thái độ đó bắt nguồn từ mối quan tâm của ông đối với những gì đang xảy ra ở châu Âu thời kỳ đó - cầu hàng không vào Berlin, những phiên toà ở Tiệp Khắc -nhưng trường hợp của Alger Hiss là nhân tố quan trọng góp phần hình thành quan điểm chính trị của ông. Alger Hiss nguyên là một quan chức ngoại giao bị đưa ra toà vì bị buộc tội là có quan hệ với gián điệp. “Mọi người tôi quen biết đều đảm bảo rằng Alger Hiss là vô tội”, Ellsberg nói, “và rằng Whittaker Chambers nói dối. Tôi đã tiến hành điều tra và đọc tất cả những tài liệu liên quan và kết luận rằng Hiss quả là có tội thật.Điều đó đưa tới cái mà tôi gọi là khủng hoảng lòng tin ở phái tả, không đến mức nghi ngờ người anh phái tả của tôi, nhưng tôi cho rằng các bạn theo phái tự do ở Havard đã quá vội vàng khi cho rằng Hiss vô tội. Đó là lúc mà tôi tự cho rằng mình là người tự do ở trong nước - ủng hộ các công đoàn, ủng hộ phong trào dòi dân quyền của người da đen - nhưng một người cứng rắn trên bình diện đối ngoại, đặc biệt đối với Liên Xô”
Daniel Ellberg đã trở thành một con diều hâu theo phái tự do cổ điển, một thành viên mới của cái nhóm hàn lâm làm con thoi giữa chính phủ với các trường đại học. Nhưng Ellberg không giống như những nhà khoa học cao cấp làm việc cho chính phủ, ông không những chỉ có những kiến thức lý thuyết về các vấn đề quân sự. Sau khi tốt nghiệp đại học, ông đã tình nguyện vào thuỷ quân lục chiến.
“Hầu như tất cả các bạn của tôi đều vào trường luật”, Ellberg nói, “và vì sao tôi lại cảm thấy trách nhiệm vào thuỷ quân lục chiến là một vấn đề quan trọng mà tôi phải mất một thời gian suy nghĩ. Tôi có thể nhìn lại thời niên thiếu của mình và tìm thấy ở đấy một vài lý do nào đó. Nhưng thực ra quyết định này chủ yếu dựa vào cái cảm giác về trách nhiệm. Cũng có cái cảm giác khi bạn đi vào lĩnh vực quân sự thì muốn có một ít kinh nghiệm về nó. Tôi vào thuỷ quân lục chiến cũng giống như tờ truyền đơn dùng để chiêu mộ thanh niên đã viết: “Anh có đủ can đảm của đàn ông để đăng ký vào thuỷ quân lục chiến không?” Tôi đăng ký vào đó để tự thử nghiệm”
Còn có một nhân tố phụ nữa. Trong những năm đầu ở trường đại học Harvard, Ellberg đã cưới Carol Cummings, nữ sinh viên năm thứ hai trường đại học Radcliffe. Cha của Carol, ông Gayle Cummings, một người goá vợ đang học luật tại trường Boston gần đấy, trước đây là một thuỷ quân lục chiến, đã được phong tướng sau khi về hưu.Các bạn của Ellbergs nhắc lại rằng ông đã lo ngại về một trái ngược có thể có giữa ông, một sinh viên đầu bù tóc rối, với ông bố vợ trong bộ quân phục cấp tướng thuỷ quân lục chiến. Họ đã thu xếp để tổ chức một buổi lễ đơn giản tại một nhà thờ Tân giáo với những người tham dự phần lớn là bạn học.
“Vấn đề là vợ tôi đã lớn lên trong môi trường của thuỷ quân lục chiến. Cô ấy thích quân chủng thuỷ quân lục chiến và cũng muốn làm một thuỷ quân lục chiến. Việc làm của tôi đã làm cho cô ấy vui lòng. Cô ấy ngạc nhiên khi nghe tôi nói là tôi đã tình nguyện đăng lính. Cô ấy không bao giờ nghĩ rằng tôi có thể làm một việc như vậy cả”.
Chính ông cũng không ngờ ông đã được chọn là một sĩ quan xuất sắc nằm trong số mười người được chọn trong 1.100 người theo học, và được giao một nhiệm vụ chính thức ngay sau khoá huấn luyện. Ông nhận một nhiệm vụ trừ bị, nghĩa là ông ở lại trong quân ngũ hai năm, chỉ huy một đại đội tốt nhất trong sư đoàn, bắn đạt loại giỏi và có số người vắng mặt ít nhất. Ông kéo dài thời gian phục vụ ra ít lâu, với hy vọng là sẽ được tham chiến ở Trung Đông như đã dự kiến, nhưng khi tình thế chiến tranh không diễn ra, ông rời khỏi thuỷ quân lục chiến và nhận một học bổng để được tiếp tục nghiên cứu tại trường Harvard, tham gia vào nhóm người ưu tú trong Society of Fellows đầu năm 1957.
Ông nhận được việc làm chính thức đầu tiên vào tháng sáu 1959, làm chuyên viên tham vấn cho Công ty Rand, đóng trụ sở trong một nhà kho cũ ở Santa Monica. Rand là một công ty chuyên nghiên cứu các vấn đề chiến lược, lúc đầu được thành lập để nghiên cứu cho không quân, về sau đã phát triển mau lẹ nhờ những hợp đồng nghiên cứu cho chính phủ. Ellsberg đã làm việc trong một năm tại Bộ quốc phòng, 1964 - 1965 - làm trợ lý cho người phó của Robert McNamara - và bắt đầu từ năm 1965, làm việc hai năm trong nhóm của Lansdale về bình định ở Việt Nam, nhưng chính ở Rand là chỗ ông làm việc nhiều nhất. Và cũng chính ở Công ty Rand mà ông nghĩ rằng ông có thể giúp đỡ Châu bằng cách mời ông ta tham gia một chương trình nghiên cứu về bình định.
Nhưng ông lại không biết rằng sứ quán Hoa Kỳ đã bí mật làm hỏng kế hoạch của ông nhằm đưa Châu ra khỏi Việt Nam. Một bức điện mật đã được gửi từ sứ quán Hoa Kỳ, ký tên Ellsworth Bunker, gửi về cho Bộ ngoại giao ở Washington cho biết rằng sứ quán có ý định ngăn cản Châu rời khỏi đất nước.
“Chúng tôi đã được báo cho biết rằng Châu đã nhận được một bức thư của Ellsberg, làm cho Công ty Rand, cho biết rằng công ty này đã mời Châu, và lời mời này chỉ còn chờ thông qua thủ tục ở sứ quán Hoa Kỳ nữa thôi, và mọi thủ tục sắp được giải quyết,” bức điện viết “Chúng tôi gợi ý Bộ hãy làm cho Ellsberg hiểu rõ hoàn cảnh tế nhị hiện nay của Châu ở Sài Gòn, để ông ta rút lời mời đó lại, trong tình thế hiện nay. Bộ cũng có thể giải thích thêm rằng khi một người của Rand đã vội vã báo cho Châu biết trước rằng đề nghị đó đã được chấp thuận, đó là điều không thể có được khi chưa có sự duyệt y của chính phủ Hoa Kỳ, thì bây giờ họ cần phải hợp tác với chúng tôi để thu xếp việc này càng êm càng tốt để khỏi gây rắc rối cho chính phủ Hoa Kỳ”.
Cho dù Ellsberg có biết bức điện mật này đi nữa thì ông cũng bất cần, bởi vì ông cho rằng vấn đề của Châu sẽ được giải quyết trong làn sóng phẫn nộ của quần chúng mà ông đang gây ra qua việc đánh cắp những tài liệu của Lầu Năm Góc. Nghề nghiệp của Ellsberg tập trung vào việc đề ra quyết định của chính phủ và Việt Nam là nỗi ám ảnh của ông. Theo ông, những tài liệu của Lầu NămGóc là sự kết hợp tính phong phú trong bản trường ca Iliad với sự xung đột trong sách về Biển chết. Nó kể lại những hoạt động bí mật đầu tiên của Hoa Kỳ ở Việt Nam, kể từ Thế Chiến II, tả lại sự cố Vịnh Bắc Bộ năm 1964, đưa đến một sự cam kết lớn hơn của Hoa Kỳ ở Việt Nam - trái ngược với những gì chính phủ đã nói cho dân chúng Hoa Kỳ biết. Ellsberg, cũng như tất cả những người chịu sức hút của quyền lực, thích thú với những câu chuyện bí mật và thích cho rằng mình là người đã được biết những điều bí mật, được đóng dấu Tối Mật, những điều bí mật mà ít người được nghe nói đến. Và đây lại là những điều bí mật nhất trong tất cả những điều bí mật, tiết lộ những điều dối trá, những lời nói dối về sự dính líu của Mỹ ở Việt Nam, do những người cũng có quá trình đào tạo hàn lâm như ông, viết bằng một văn phong rất quen thuộc với ông.
Nhưng trong thực tế, đối với bất cứ người nào khác, những Tài liệu của Lầu Năm Góc mà Ellsberg nghĩ rằng có thể làm chấm dứt chiến tranh, có một thiếu sót lớn viết một cách quan liêu, không có hơi thở của cuộc sống, viết dài hàng ngàn trang không thể nào đọc xiết Những câu chuyện như chuyện của Châu thì không có, cũng không có nhiều nhân tố thiết yếu khác có thể cho người đọc thấy rõ chiến tranh đã diễn ra như thế nào. Còn những nhà báo phản ánh tình hình từ Sài Gòn? Và những người đang phụ trách khía cạnh chính trị của cuộc chiến này - họ là những người như thế nào: Những khía cạnh dính líu đến con người thì tài liệu của Lầu Năm Góc hoàn toàn không biết đến mà đó có thể lại là phần quan trọng nhất trong cuộc chiến Việt Nam. Muốn hiểu Châu thì, trong thực tế chúng ta phải trở lại với một cô gái trẻ xinh đẹp đang nhìn qua cửa sổ trong nhà của cô ta ở Hà Nội ngày nào.

Hà nội 1945
“Elyette Bruchot, con tránh chỗ cửa sổ đi, con có nghe mẹ nói không?”
Tôi cứ làm như không nghe mẹ nói gì. Tôi tiếp tục nhìn ra ngoài cửa sổ. Bên ngoài đang có một cuộc mít tinh rất lớn trước quảng trường Nhà Hát lớn Hà Nội. Tôi nhìn rõ tất cả Cuộc mít tinh này do Cộng Sản lãnh đạo. Năm tháng trước đây, tháng Ba năm 1945, bọn Nhật đã ra lệnh cho chúng tôi phải dọn đồ đạc và rời bỏ ngôi biệt thự của chúng tôi, ngôi biệt thự mà cửa sổ của nó là liên hệ duy nhất của tôi với thế giới bên ngoài. Chúng tôi đã phải bỏ lại tất cả chỉ kịp lấy quần áo, dọn đến căn hộ này, căn hộ của một người bạn thời còn trẻ của mẹ tôi. Khi bọn Nhật đuổi chúng tôi ra khỏi nhà, chúng đã bắt bố dượng tôi và tất cả những người Pháp khác nhốt lại. Thế là mọi sự tan vỡ tất cả. Bọn Nhật không biết cách cai trị Việt Nam. Từ Chiến tranh thế giới tới nay, chính là những người Pháp như bố dượng tôi đã làm việc đó thay cho họ. Bây giờ thì mọi thứ đều hỏng cả. Đê vỡ ở nông thôn, đồng ruộng ngập nước, mùa màng hư hại. Tất cả những người làm ruộng ở nông thôn kéo về thành phố, nhưng thành phố cũng chẳng có gì để cứu họ khỏi chết đói. Nạn đói hoành hành. Hàng ngàn người chết. Mỗi ngày xe kéo rơ-moóc chở xác chết qua nhà của chúng tôi. Chúng tôi bỏ chạy và đóng cửa sổ lại vì mùi hôi thối chịu không nổi. Điều duy nhất chúng tôi có thể làm là nốc cô-nhắc vào để xua đuổi vi trùng đi. Lúc đó tôi mười lăm tuổi và khỏe mạnh nhưng chúng tôi chỉ đủ thực phẩm để ăn qua ngày, khó mà kéo dài được lâu. Những ngày hôm ấy, ngày 22 tháng Tám, 1945, khi tôi nhìn ra cửa sổ thì những gì tôi trông thấy đã làm thay đổi tất cả. Bất thình lình, trên bầu trời, ngang qua con sông, ngay trên sân bay tôi thấy xuất hiện một cái dù. Rồi hai máy bay. Tin tức lan đi rất nhanh. Người Mỹ đã đến. Đó là phái bộ Patti. Hầu hết các sĩ quan OSS của Mỹ ngồi trên một máy bay. Chiếc còn lại chỉ Jean Sainteny và các quan chức của nước Pháp Tự do. Viên sĩ quan OSS nhảy dù và chạm đất đầu tiên là Lou Conein - người sau này là chồng tôi.
Lou Conein tình nguyện nhảy dù đầu tiên và tới đất trước khi hai máy bay hạ cánh là để xem người Nhật sẽ đón tiếp họ ra sao. Người Nhật vẫn còn quân lính vũ trang kiểm soát sân bay Hà Nội và các lực lượng quân sự của họ ở Đông Dương chưa đầu hàng. Hai trái bom nguyên tử đã được ném xuống Hiroshima và Nagasaki hai tuần trước đó, vào ngày 6 và ngày 9 tháng Tám và cuộc chiến tranh coi như kết thúc nhưng không ai có thể nói trước là chúng sẽ phản ứng ra sao khi người Mỹ đến. Quân lính Nhật Bản không tỏ thái độ thù địch, mà cũng chẳng nhiệt tình gì lắm trong việc đón tiếp Conein, và ông này đã ra hiệu cho hai chiếc máy bay biết rằng họ có thể hạ cánh an toàn. Hai chiếc máy bay này bay từ Côn Minh, miền Nam Trung Quốc tới.
Archimedes Patti, thiếu tá chỉ huy phái bộ OSS đi Việt Nam - OSS Office of Strategic Services, là cơ quan tình báo của Hoa Kỳ trong Chiến tranh thế giới lần thứ II, tiền thân của CIA sau này - không có quan hệ tốt với người Pháp nhưng Lou Conein thì lại khác. Lou Conein giao hảo tốt với người Pháp là những người muốn lập lại sự hiện diện của Pháp trên nước thuộc địa lâu đời này khi Chiến tranh thế giới II đi tới chỗ kết thúc. Vì những lý do nghề nghiệp cũng như những lý do cá nhân, Archimedes Patti và Jean Sainteny không thích nhau. Conein là một người nhập quốc tịch Mỹ nhưng sinh ra ở Paris và nói tiếng Pháp. Ông là một người phàm ăn tục uống, nói năng dí dỏm tế nhị, tính tình dễ dãi, chơi với ai cũng được. Sau này, Jean Sainteny đã trao cho ông một huân chương Bắc Đẩu bội tinh của Pháp, đó là sự đánh giá rất cao về khả năng của ông trong giao dịch với cả hai phía.
Archimedes Patti và Jean Sainteny phần lớn làm việc theo cảm hứng cá nhân của từng người chứ không theo những chỉ thị cụ thể của chính phủ họ - vấn đề là ở chỗ đó. Tình hình căng thẳng của họ, đầy những oán thù lặt vặt, lại phát triển thông qua những định kiến tự nhiên của họ, với tư cách là người Mỹ hay là người Pháp: một người là Mỹ gốc Ý thuộc đời thứ nhất, nhiệt thành chống chủ nghĩa thực dân, cho mình là hơn người vì nước mình đã thắng trong cuộc chiến này; còn người kia, có thể là vì thông minh hơn và tự hào hơn, lại quá nhạy cảm với sỉ nhục và hèn kém của nước mình. Nhưng chịu trách nhiệm thực sự phải nói là do tính chất hai mặt và không rõ rệt trong chính sách về Đông Dương của cả hai nước Mỹ và Pháp trong những ngày cuối cùng hỗn độn của cuộc Thế Chiến II, đặc biệt là sự rối rắm trong chính sách của Mỹ.
Cá nhân ông Franklin D. Roosevelt thì chưa bao giờ nghi ngờ về những gì ông muốn ở Việt Nam, Lào và Campuchia, cả ba nước hợp lại thành Đông Dương. Khi vị ngoại trưởng của ông hỏi về vấn đề Đông Dương, dưới ánh sáng những lời cam kết trước đây của Mỹ sẽ giúp khôi phục lại đế quốc thuộc địa của Pháp sau chiến tranh, Roosevelt đã trả lời ngày 24 tháng giêng năm 1944, rằng: “Mỗi trường hợp đều phải giải quyết riêng biệt, nhưng trường hợp Đông Dương đã hoàn toàn rõ ràng. Nước Pháp đã bòn rút ở đây một trăm năm rồi. Nhân dân các nước Đông Dương cần được hưởng một cái gì hơn thế”. Nhưng biến ý đồ cá nhân của mình thành hiện thực chính trị lại là một việc khác. Các cường quốc - Mỹ, Anh, Nga - đang bận rộn vẽ lại đường biên giới các nước khi chiến thắng đã gần kề, và Roosevelt muốn tách Đông Dương ra khỏi nước Pháp mà đặt nó dưới sự “uỷ trị”, coi như Mỹ, Anh và Nga là người bảo trợ, còn Pháp và Trung Hoa thì đóng vai lép vế hơn, cho tới khi thực hiện một cuộc tuyển cử thực thi quyền tự quyết, để cho người Việt Nam tự cai quản đất nước của mình. Thực tâm của Roosevelt phù hợp với tình cảm chống thực dân của đại đa số người Mỹ.
Nhưng tới đây thì ông lại thấy mình bất đồng sâu sắc với người bạn và người đồng minh, Winston Churchill của nước Anh. Roosevelt và Churchill đồng ý với nhau về hầu hết mọi vấn đề liên quan đến nước Pháp. Cả hai người đều không ưa De Gaulle, một viên thiếu tướng xuất hiện ở London sau khi nước Pháp sụp đổ, rồi tuyên bố mình là người đại diện cho nước Pháp Tự do. Chẳng ai bầu mà cũng chẳng ai bổ nhiệm De Gaulle, ngoại trừ ông ta, với cái vẻ kênh kiệu, có phần quá đáng ngay với người Pháp, làm cho Roosevelt và Churchill khó chịu. Hơn nữa, cả hai không hiểu vì sao họ, hai nhà lãnh đạo được bầu lên của hai nước dân chủ lớn nhất thế giới, lại phải đưa lén lút De Gaulle trở lại nước Pháp hậu chiến chỉ vì ông này cứ dán mãi cho mình cái nhãn tự quyết. Dù sao thì đối với hai ông, tướng De Gaulle vẫn còn khá hơn những người Pháp đã quay đít chạy mất khi quân Đức vừa xâm lăng, bỏ Paris để lập một chính phủ ở gần miền trung nước Pháp, ở Vichy, hợp tác với bọn phát xít, nói là để “giúp đỡ” đất nước họ - họ cũng tự coi là những người yêu nước - qua một giai đoạn lịch sử khó khăn. Những người Pháp theo phái Vichy đã hợp tác với Nhật ở Đông Dương, bố dượng của Elyette Bruchot cũng nằm trong đám đó, cho tới những ngày cuối cùng, họ định làm một cuộc lật đổ người Nhật nhưng đã bị đập tan và nhốt vào khám trước khi cuộc lật đổ bắt đầu. Sự hợp tác của Vichy ở Đông Dương là một lý do khác, theo ý kiến của Roosevelt, để tách thuộc địa này khỏi nước Pháp.
Tuy nhiên, Winston Churchill chống lại kế hoạch của Roosevelt, không phải vì thương yêu nước Pháp, mà bởi vì nó đe doạ sự tiếp tục cai trị của Anh trên các thuộc địa của họ. Miến Điện, Singapore, Mã Lai và Ấn Độ, những bộ phận của Vương quốc hợp nhất của Churchill sẽ ra sao? Liệu chúng nó có được ban thưởng quyền tự quyết không? Churchill nói với Roosevelt, “tôi không phải là vị Thủ tướng đầu tiên của Đức Vua chủ trì sự giải tán Đế quốc Anh”. Hai nhà lãnh đạo đã từng có những cuộc thoả hiệp trong thời gian chiến tranh và nói thật mà nghe, Đông Dương không phải là vấn đề họ quan tâm lắm trong toàn bộ những vấn đề phải giải quyết Roosevelt đã gợi ý cho Đông Dương hưởng chế độ “uỷ trị” trong lần gặp gỡ với Churchill và Stalin ở Cairo và Teheran, và sau đó ở Yalta. Khi đề nghị của ông không được người Anh tán thành, ông cũng không ép, mà giữ một đường lối trung dung. Một năm sau khi ông nói với ngoại trưởng của ông rằng nhân dân Đông Dương đáng được hưởng một chế độ tốt hơn sự thống trị của Pháp, lúc này ông đã quá mệt mỏi và sắp chết, lại nói một cánh chung chung rằng: “Tôi không muốn dính líu vào bất cứ quyết định nào về Đông Dương nữa”. Ông mặc kệ tất cả. Chắc chắn là ông không muốn giúp cho người Pháp lấy lại Đông Dương nhưng đồng thời ông cũng không làm gì để giúp người Việt Nam tống cổ người Pháp đi.
Chính trong những hoàn cảnh như vậy mà Archimedes Patti, Lou Conein và những nhân viên OSS khác được phái tới Côn Minh, miền Nam Trung Hoa, tiền đồn gần Đông Dương nhất. Tướng William Donovan, người đứng đầu cơ quan OSS đã gọi Patti từ châu Âu về Washington vào giữa năm 1944. Donovan mời Patti đi ăn tối và nói ông muốn Patti thành lập một tổ chức tình báo ở Đông Dương. Patti nói được tiếng Pháp và hình như đó là khả năng chủ yếu của ông để được chọn giao nhiệm vụ này. Patti biết rằng Đông Dương nằm đâu đó ở châu Á nhưng ông phải hỏi Donovan xem chính xác nó nằm ở đâu. Khi ông đã xác định được vị trí của Đông Dương rồi, Donovan mới nói cho ông biết cú điện thoại mà ông này vừa nhận được từ Tổng thống Roosevelt, để thảo luận xem chính sách của Hoa Kỳ ở Đông Dương sẽ ra sao. Patti thấy rất mù mờ. Hình như không có chính sách nào được viết thành văn bản, đúng là chỉ có một số lời tuyên bố của Roosevelt, của bộ trưởng ngoại giao và của tổng tham mưu trưởng.
Sau này, Patti đã kể lại với một nhà báo rằng “chính sách của Mỹ - như tướng Donovan đã truyền đạt cho tôi - là trong sứ mạng của tôi ở Viễn Đông, tôi sẽ không ủng hộ người Pháp giành lại thực địa cũ của họ mà tôi cũng không ủng hộ người Việt Nam giành lại độc lập”
Với lệnh đó của tướng Donovan, Patti đã đến làm việc tại một văn phòng người ta dành cho ông ở tổng hành dinh của OSS và bắt đầu nghiên cứu những tài liệu hiếm hoi về Đông Dương. Ông đã ở lại đó trong sáu tháng.
Trong khi Archimedes Patti đang nghiên cứu kỹ về Đông Dương thì Lou Conein đang chuẩn bị nhảy dù xuống miền Nam nước Pháp, với tư cách người đứng đầu một nhóm ba người của OSS. Conein cao sáu bộ()(thực ra có hơn năm bộ nhưng ông ta nói thêm cho tròn), tóc nâu sẫm; mắt xanh, môi dày với nhúm tóc ở giữa trán, làm cho ông ta như con sư tử ngái ngủ. Lou Conein sinh ra ngày 29 tháng Mười Một năm 1919, đường Vaugirard, Paris. Cha ông đã phục vu trong quân đội Pháp, chết sau đó ít lâu và mẹ ông đã gửi ông lúc năm tuổi đến ở với bà dì, bà này đã lấy một người Mỹ và ngụ tại Kansas. Lou đã lớn lên như một người Mỹ và đã quên hết tiếng Pháp ông học nói hồi nhỏ. Ông học không giỏi. “Tôi là một học sinh tồi”, Conein nói. “Rất tồi là khác”. Nhưng còn lâu thì ông mới ngốc nghếch. Khôn ngoan và sắc sảo, là hai từ mà những người sau này biết ông đã dùng để mô tả ông. “Tôi không có cảm nghĩ rằng sau này lớn lên mình sẽ thành người Pháp nhưng tới năm 1939 tôi quyết định gia nhập quân đội Pháp, chủ yếu là vì ở Kansas không có việc gì để làm và tôi cũng muốn phiêu lưu mạo hiểm một chút, thế là tôi đi theo một chiếc tàu chở mấy con la từ Missouri đi Bordeaux. “Ông đã tìm được bà mẹ ruột của mình ở Paris và bà đã sống với ông và Elyette trong mười chín năm cuối cùng của đời mình. Với cương vị một người lính, ông được phân về một sư đoàn quân chính quy đóng ở biên giới Bỉ đúng vào lúc quân Đức mở cuộc chiến tranh chớp nhoáng. Cũng như bất cứ người nào khác, ông đã bỏ chạy và chạy không ngừng cho tới miền Tây Nam nước Pháp, tới xứ Basque, trên dãy Pyrénées. Ông cùng với một người bạn, sống sót được nhờ những thứ ăn cắp được ở những trang trại lân cận, và chờ đợi, không làm gì hơn cho đến khi đất nước được tồ chức lại thành một vùng bị quân Đức chiếm đóng và một vùng nước Pháp của Vichy, rồi ông đi Bắc Phi, từ đó đi Martinique, rồi đi New Yord, tại đó ông gia nhập quân đội Hoa Kỳ vào cuối năm 1941 và đi Hawai, với chức trung sĩ trong một đơn vị pháo binh dã chiến. “Tôi phải quỳ xuống mà cảm ơn Chúa đã cho tôi vào quân đội”, Conein nói. “Nếu không thì tôi vẫn còn ở Kansas mà xúc phân ngựa”. Không ai hình dung nổi Conein quỳ xuống mà cầu nguyện nhưng người ta có thể đồng ý với ý kiến của ông về quân đội. Năm 1943, ông được cử đi học làm sĩ quan. “Họ cần bia đỡ đạn, và tất cả những ai biết đọc biết viết đều được gửi đi trường sĩ quan. Ba người tuyển quân cho cơ quan OSS đến Fort Benning và đòi gặp bất kỳ ai biết nói tiếng nước ngoài. Họ kiểm tra hiểu biết của tôi rồi gửi tôi từ đó về OSS với hàm thiếu uý. Họ đưa tôi tới ở chỗ Congressional Country Club, bên ngoài Washington một thời gian. Sau đó, một hôm họ gọi chúng tôi lên và cho biết là họ cần người tình nguyện để cho người Anh huấn luyện và nhảy dù xuống châu Âu để giúp cho các nhóm kháng chiến ở đó đánh lại quân Đức”
Lou Conein đã lập nghiệp trong một đội biệt kích do Anh huấn luyện. Bình thường khoẻ mạnh, tập luyện tốt, can đảm, không sợ mạo hiểm khó khăn, ông thích làm nổ tung mọi thứ và rất giỏi về môn đó. Hơn nữa, ông có khả năng giao tiếp với mọi dân tộc khác nhau. Ông nhảy dù xuống vùng Tây Nam nước Pháp ngày 15 tháng Tám năm 1944, đúng ngày đánh vào miền Nam nước Pháp trong Chiến dịch Anvil.
“Một sĩ quan Anh và nữ điện tín viên của ông ta đã ở đó hai năm rồi nên chúng tôi không gặp phải những vấn đề như những người phải tổ chức từ đầu với những nhóm người ô hợp”, Conein kể. “Nhóm kháng chiến của chúng tôi gồm có khoảng hai ngàn người. Một trong những vấn đề lớn nhất của chúng tôi là cánh Cộng sản trong kháng chiến. Lúc đó hiểu biết của tôi cũng chưa mở mang tới mức hiểu được Cộng sản là gì. Một thiếu sót của chương trình OSS là không huấn luyện chính trị. Chúng tôi không hiểu được rằng có những cuộc xung đột giữa tướng De Gaulle và tướng Henri Giraud và giữa Roosevelt với De Gaulle. Chúng tôi cũng không hiểu được cuộc đấu tranh giữa phái nước Pháp Tự do với phe nước Pháp thuộc địa. Thế là một hôm tôi bị Cộng sản Pháp bắn. Chúng tôi có một trận đánh dàn trận với họ ở Toulouse. Hai bên đều có người chết. Thật là điên khùng”.
Conein ở lại Pháp cho tới tháng Chạp năm 1944, rồi ông được gọi về Mỹ và được bảo cho biết là chuẩn bị đi Trung Quốc. Cuộc chiến ở châu Âu đi vào chỗ kết thúc. Những nhân viên tình báo OSS được phái đi Côn Minh để chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc đổ quân vào đất Nhật. Ông được giao nhiệm vụ huấn luyện các đội biệt kích cho phe Trung Hoa Quốc gia. Tháng Tư năm 1945, sĩ quan chỉ huy cho tìm ông.
“Tôi nghe anh nói tiếng Pháp”, đại tá nói.
“Vâng, thưa ngài”, Conein đáp.
“Được, vậy thì anh đi Đông Dương”
“Ở đâu vậy thưa ngài?”
“Ở chỗ mà bọn Nhật vừa đánh đổ bọn Pháp và bọn Pháp đang cầu cứu chúng ta. Chúng ta sẽ gửi tới đó vài nhóm huấn luyện”.
Côn Minh là nơi được chọn làm trụ sở cho bốn phải bộ - Mỹ, Anh, Pháp và Trung Hoa. Khi người Nhật bắt những người theo phái Vichy ở Việt Nam vào tháng Ba 1945, có một bộ phận của đạo quân thuộc địa 8.500 người chạy vượt qua biên giới vào lục địa Trung Hoa. Conein bây giờ là đại uý, đã tập hợp một nhóm năm người, cho họ một số vũ khí và dự trữ, tổ chức một chiếc máy bay cho họ nhảy dù vào một toán quân Pháp này. Bộ phận quân Pháp này gồm có một trăm năm mươi người, kể cả một số người gốc Việt Nam, trong đó có Nguyễn Văn Vỹ, sau này là một viên tướng của Sài Gòn, và một số người khác mà sau này Conein sẽ hợp tác khi ông là nhân vật của CIA. Sau khi đã trang bị và huấn luyện, Conein hướng dẫn họ vượt qua núi vào lãnh thổ Đông dương đánh vào bộ chỉ huy một sư đoàn của Nhật. Trận đánh thắng lợi và toán quân này lại rút lui trở về địa điểm của họ bên trong lãnh thổ Trung Hoa. Vài ngày sau, Conein nhận được mệnh lệnh trở về Côn Minh. “Ông được phái đi Hà Nội”, ông được báo cho biết như vậy.
Trong lúc đó thì Archimedes Patti đang đi thị sát năm ngày ở biên giới Việt Nam, theo dõi hoạt động của OSS. Ông đưa một nhân viên OSS vào Việt Nam để tổ chức một mạng lưới vượt và chạy trốn cho những phi công Mỹ bị quân Nhật bắn rơi. Cùng với nhân viên này là một người Việt Nam tên là Hồ Chí Minh, người này sẽ đưa anh ta tới gặp các chiến sĩ kháng chiến Việt Nam là những người có thể tổ chức mạng lưới nói trên. Patti làm quen với ông Hồ Chí Minh trong sáu tháng sau đó và có dịp gặp gỡ ông Hồ khá thường xuyên trong năm tuần lễ, từ 26 tháng Tám 1945 ngày ông Hồ vào Hà Nội cho tới ngày 1 tháng Mười, khi phái bộ Patti giải thể.
Lúc họ gặp nhau đầu tiên, ông Hồ Chí Minh đã năm mươi lăm tuối và là một nhà hoạt động chính trị được đào tạo ở Liên Xô, hoạt động đã hai mươi lăm năm, gần bằng thời gian mà Patti đã sống. Nói được nhiều thứ tiếng, đi nhiều nơi trên thế giới, tron ba mươi lăm năm hoạt động gần dây, ông đã sống ba mươi lăm năm ngoài lãnh thổ Việt Nam, manh nhiều tên gọi khác nhau. Ông là một trong những người sáng lập ra Đảng cộng sản Pháp lẫn Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông đã trở lại miền Nam Trung Hoa năm năm trước đây để giúp dựng lên Việt Nam Độc lập Đồng minh - gọi tắt là Việt Minh - mặt trận này đã được thành lập năm 1941 trong một cuộc mít-tinh của Đảng Cộng sản Đông Dương. Việt Minh bao gồm cả những phần tử không Cộng sản và bất cứ cá nhân hay đoàn thể nào muốn tham gia đầu tranh để “giải phóng dân tộc” - trước mắt là kháng chiến chống Nhật. Ông Hồ và những người bạn của ông đã bỏ ra hai năm để xây dựng tổ chức Việt Minh. Đội du kích đầu tiên được thành lập từ năm 1943, nhưng phải mất một thời gian thì nó mới thực sự tác chiến được. Trên thực tế, hoạt động của OSS ở miền Nam Trung Hoa và hoạt động chống Nhật của Việt Minh diễn ra gần như đồng thời. Sau này, Archimedes Patti đã được hỏi ông có cảm tưởng gì về ông Hồ Chí Minh.
“Thực ra ông không gây ấn tượng cho tôi bao nhiêu, thành thực mà nói như vậy”, Patti nói. “Đối với tôi thì ông chỉ là một ông già Việt Nam. Trừ có một điều là trước khi từ giã ông nói với tôi: “Nếu ông cần sự giúp đỡ gì thì tiếp xúc với những người sau đây”, rồi ông đưa cho tôi một bản danh sách lúc đó chẳng có ý nghĩa gì với tôi ở Côn Minh cả. Sau đó những người này đã đến trụ sở của chúng tôi ở Côn Minh, cho chúng tôi một số tin tức quan trọng về hoạt động của quân Nhật ở Đông Dương. Chúng tôi bắt đầu nhận được tin tức mà không mất tiền - không có đòi hỏi gì kèm theo, đó lả điều chưa từng có. Tin tức đó tương đối chính xác. Lúc đầu chúng tôi không tin những tin tức đó. Nhưng nó khác với tin của Pháp. Thế là chúng tôi ít nhiều cũng bắt buộc phải đọc những tin do Việt Nam cung cấp, và chúng tôi thấy rằng những tin ấy rất tốt… Tôi mới nói với cấp trên của tôi ở Trùng Khánh, với sự kính trọng đối với ông Hồ Chí Minh, ông dứt khoát là một người Cộng sản, không có vấn đề gì trong đầu tôi cả. Nhưng ông không phải là một người Cộng sản của Moscow. Ông là một người yêu nước sử dụng những phương pháp và kỹ thuật của Cộng sản để đạt mục đích mà thôi”.
… Tuy nhiên, nói rằng ông Hồ Chí Minh hoàn toàn không được ai biết đến là nói quá. Cũng như nói rằng ông vào Hà Nội giữa sự hoan hô của quần chúng, so với Lênin, Mao hay Castro vào thời điểm đó trong sự nghiệp cách mạng của họ, thì ông gần như không ai biết thật. Có thể là ông sẽ được nhiều người ủng hộ hơn nếu tình hình chính trị thời Pháp cai trị khác đi. Ông có phong cách được người Việt Nam quý chuộng thậm chí trái ngược với quan niệm của họ về Cộng sản nữa. Khắc khổ, nhỏ nhẹ, ông giống như một người ông nhân từ, mặc dầu điều đó không khớp với những tài liệu nói về sự cương quyết của ông. Bằng bất cứ giá nào, người Pháp cũng không cho phép bất cứ chính đảng nào tồn tại ở Việt Nam, cho đến khi Mặt trận Bình dân lên nắm chính quyền ở Pháp năm 1936. Họ truy lùng bỏ tù và thỉnh thoảng còn bắn chết bất cứ ai bị coi là cổ động chính trị. Vì vậy mà hoạt động chính trị ở Việt Nam, dù là quốc gia hay Cộng sản đều phải tiến hành dưới hình thức những âm mưu lật đổ, những thủ đoạn. Tình hình lộn xộn đến nỗi ông Hồ Chí Minh, trước đó được biết với cái tên Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Tất Thành, chỉ lấy lại tên cuối cùng của mình mấy năm trước đó thôi, và nhiều người bối rối không hiểu có phải cả ba tên đó chỉ một người không. Ông Hồ Chí Minh biết rõ vị thế bấp bênh của mình lúc đó. Hơn nữa, ông biết rõ rằng ông không thể trông cậy nhiều ở Liên Xô trong khi nước này đã bị tàn phá trong chiến tranh và đang tập trung gìn giữ cái sân sau của mình ở Đông Âu trong quỹ đạo của chủ nghĩa Cộng sản. Ông cũng không thể nhờ vả gì nhiều ở những người Cộng sản Trung Hoa đang bận tâm với cuộc cách mạng của chính họ. Chắc chắn là ông không thể không biết rằng Hoa Kỳ sẽ ra khỏi cuộc chiến này với tư cách một nhân tố chi phối trong mọi công việc của thế giới và ông cần phải khai thác tình thế đó theo cách có lợi cho ông.
Giữa tháng Tám 1945, lực lượng của ông Hồ Chí Minh đã tiến vào cướp chính quyền ở Hà Nội. Cách tính toán thời gian của họ xem ra tuyệt hảo. Nó đã diễn ra trong thời gian có chỗ trống quyền lực ở Việt Nam khoảng gần một tháng, giữa lúc bom nguyên tử rơi xuống Nhật Bản với lúc các lực lượng chiếm đóng của đồng minh tới nơi.
Jean Sainteny, người đại diện cho nước Pháp Tự do, đã cố gắng từ Côn Minh đến Hà Nội trong hai tuần, mặc dầu lúc đó rõ ràng là chiến tranh đã kết thúc. Charles de Gaulle đã chỉ định ông làm người đại diện cho Pháp ở Đông Dương. Ông này về sau đã thừa nhận rằng những chỉ thị ông nhận được ở cấp trên không rõ ràng gì hơn của Patti. Sainteny nói rằng bức điện duy nhất ông nhận được lúc quân Nhật đầu hàng là “chúng ta đã bị lạc hậu trước tình hình. Chúng tôi tin tưởng ở ông… mà tuỳ cơ ứng biến”. Sainteny cho rằng nói như vậy có nghĩa là ông phải lập lại sự hiện diện của Pháp ở Đông Dương. Nhưng ông không có phương tiện đi lại của ông và Patti từ chối cho ông một phi đội máy bay. Patti nói rằng ông không muốn giúp Sainteny vì ông đã được lệnh không giúp cho người Pháp. Tuy nhiên, cũng trong thời gian ấy ông phái một sĩ quan OSS của ông di theo Võ Nguyên Giáp, người tư lệnh quân sự của ông Hồ Chí Minh, cùng với quân đội ông đi từ Hoa Nam về Hà Nội. Patti nói rằng đó là một cuộc hành quân càn quét sự kháng cự của quân Nhật, nhưng Việt Minh cũng đã mở đường thâm nhập nhiều vùng ở nông thôn kiểm soát toàn bộ dân chúng nông thôn và kết quả rõ ràng nhất là đã để cho ông Hồ Chí Minh và quân đội của ông vào Hà Nội trước người Pháp.
Patti và những sĩ quan OSS của ông đi lại tự do ở Hà Nội nhưng Sainteny và người Pháp lại nhận được sự đón tiếp kiểu khác từ phía người Nhật từ khi họ đến. Lúc nào họ cũng bị canh giữ và Sainteny cho rằng trong vụ này có bàn tay của Patti. “Tôi thường xuyên có lính Nhật mang súng cắm lưỡi lê canh gác và Patti thường đến để biết chắc rằng chúng tôi đang bị người Nhật - kẻ thù chung của chúng tôi - canh gác. Đám người này đã đầu hàng trước đây hai tuần”
Trong thời gian đó, Patti và các sĩ quan OSS của ông đã chụp ảnh chung với ông Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Hồ Chí Minh đã gọi Patti một buổi chiều để hỏi ông có biết lời văn của bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ không. Ông Hồ nói rằng ông định trích dùng lời văn đó trong bài diễn văn ông sẽ đọc vào ngày 2 tháng Chín năm 1945, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Patti không nhớ chính xác lời lẽ nhưng đã cố gắng để giúp đỡ ông.
Ông Hồ Chí Minh đã đọc diễn văn trên lễ đài, bên kia quảng trường mà từ căn hộ bên này cô Elytte Bruchot đã nhìn qua cửa sồ để mà xem. Bài diễn văn đó bắt đầu: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng…”
Buổi lể của ông Hồ đang tiến hành thì có một phi đội máy bay Mỹ bay qua quảng trường. Các phi công nghiêng cánh, Patti nói rằng đây chỉ là sự tình cờ. Ông nói rằng có thể là máy bay bay ngang qua đây và nghiêng cánh vì tò mò thấy quần chúng tụ tập bên dưới. Dù sao thì quần chúng cũng cho rằng nghiêng cánh có nghĩa là một lời chào mừng và thêm một bằng chứng cho thấy người Mỹ cương quyết ủng hộ Hồ Chí Minh và những người Cộng sản của ông.
Sự thực là Harry Truman, người đã lên nhậm chức sau cái chết của Roosevelt, ngày 12 tháng Tư năm 1945, đã theo một chính sách mâu thuẫn như người tiền nhiệm của ông. Truman nói rằng ông giao vấn đề về Đông Dương lại cho các tư lệnh quân sự của ông. Tháng Sáu năm 1945, tại hội nghị Postdam, các vị tham mưu trưởng quyết định là phần phía nam Việt Nam sẽ đặt dưới sự kiểm soát của huân tước đô đốc Mountbatten, tư lệnh tối cao chiến trường Đông Nam Á. Từ đó dẫn đến quyết định là quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng của Thống chế Tưởng Giới Thạch sẽ tiến vào Bắc Việt Nam để nhận sự đầu hàng của Nhật ở Hà Nội và một lực lượng nhỏ quân Anh cũng sẽ làm như vậy ở Sài Gòn. Quân đội Trung Hoa quốc gia đã sẵn sàng thừa nhận chính phủ Hồ Chí Minh ở miền Bắc nhưng ở miền Nam, người Anh lại chiều theo người Pháp là những người đang tìm cách lấy lại phần đất này từ tay của Việt Minh. Ngày 12 tháng Chín năm 1945, người Anh cho đổ bộ xuống Sài Gòn một tiểu đoàn lính Gurkha và một đại đội lính Pháp Tự do. Mười một ngày sau với sự giúp đỡ của người Anh, Pháp đã lật đổ những người đại diện của ông Hồ Chí Minh ở Sài Gòn. Với miền Nam Việt Nam đã trở lại dưới quyền kiểm soát của Pháp, sân khấu lại chuyển dịch lên phía Bắc, nơi

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Quyền hạn của bạn:

Bạn không có quyền trả lời bài viết
Chia sẻ
Share

_____